Lâm Trực@
Có những cuốn sách không nguy hiểm vì dở, mà nguy hiểm vì được tung hô. Có những tác giả không đáng bàn vì sai lầm cá nhân, mà cần phải bàn vì họ được biến thành biểu tượng. Và có những khoảnh khắc mà việc vinh danh một tác phẩm không còn là chuyện văn học, mà trở thành một hành vi chính trị trá hình dưới áo choàng nghệ thuật. Trường hợp Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chính là một ví dụ điển hình như thế.

Tôi không bàn đến việc người ta có quyền viết nỗi buồn hay không. Không ai độc quyền niềm vui, cũng chẳng ai cấm độc quyền nỗi đau. Nhưng điều cần nói thẳng là không phải nỗi buồn nào cũng vô tội, và không phải cách kể nào về chiến tranh cũng được phép đứng ngoài phán xét lịch sử. Văn học không đứng ngoài đạo lý dân tộc. Một tác phẩm viết về chiến tranh mà làm lệch bản chất cuộc chiến thì dù câu chữ có bóng bẩy đến đâu cũng là một tác phẩm nguy hiểm.
Bảo Ninh từng công khai nói rằng cuộc chiến tranh đánh đuổi xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của nhân dân Việt Nam là nội chiến. Chỉ một mệnh đề như thế thôi đã đủ làm sụp đổ toàn bộ nền tảng chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nội chiến là gì. Là anh em trong một nhà giết nhau vì quyền lực. Là xung đột không có kẻ xâm lược từ bên ngoài. Là cuộc chiến mà cả hai phía đều mang trách nhiệm lịch sử ngang nhau. Khi gán cuộc chiến tranh Việt Nam vào khái niệm đó, Bảo Ninh đã làm một việc vô cùng nghiêm trọng là tước bỏ tư cách chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và rửa sạch tội ác xâm lược cho đế quốc Mỹ cùng bộ máy ngụy quyền tay sai ở Sài Gòn.
Lịch sử không cho phép đánh tráo như vậy. Cuộc chiến tranh ấy không phải của miền Bắc đánh miền Nam. Đó là cuộc chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam chống lại một siêu cường quân sự, với hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ, với bom nguyên tử dự tính, với chất độc da cam rải khắp làng mạc, với các trại giam, ấp chiến lược, tàn sát dân thường. Nhân dân miền Nam không phải khán giả. Họ là chủ thể lịch sử. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam không phải là phụ lục của miền Bắc mà là kết tinh ý chí chiến đấu của chính người miền Nam.
Gọi cuộc chiến ấy là nội chiến tức là nhổ vào máu xương của hàng triệu người đã ngã xuống. Đó không còn là quan điểm cá nhân. Đó là lập trường chính trị. Và khi lập trường ấy được truyền bá dưới hình thức văn học, lại được vinh danh, được đưa lên bục cao đạo đức, thì văn học đã bị biến thành công cụ xét lại lịch sử.
Nỗi buồn chiến tranh không chỉ buồn. Nó u ám một cách có chủ ý. Nó biến người lính giải phóng thành kẻ lạc loài, biến chiến tranh giải phóng thành thảm họa vô nghĩa, biến hy sinh thành sự nhầm lẫn. Đọc cuốn sách ấy, người ta không thấy nhân dân, không thấy lý tưởng, không thấy chính nghĩa. Chỉ thấy một cái tôi cô độc, bế tắc, vật vã trong tuyệt vọng. Đó là thứ chủ nghĩa hiện sinh nhập khẩu, khoác áo chiến tranh Việt Nam, nhưng lại phản bội cốt lõi lịch sử Việt Nam.
Điều đáng nói hơn nữa là việc vinh danh một tác phẩm không thể tách rời hoàn toàn khỏi con người của tác giả, nhất là khi tác giả ấy được đưa lên như một biểu tượng đạo đức và trí tuệ. Trong nhiều năm, dư luận đã nhắc đến việc Bảo Ninh từng bị kỷ luật Đảng và buộc rời khỏi cơ quan nhà nước vì hành vi bị cho là phá hoại kết quả nghiên cứu khoa học của đồng đội. Nhà toán học Nguyễn Cảnh Toàn đã công khai nhắc lại câu chuyện ấy. Dù chi tiết cụ thể cần được kiểm chứng bằng tư liệu chính thức, việc một cáo buộc nghiêm trọng tồn tại dai dẳng trong không gian công luận mà không được phản biện đến nơi đến chốn đã tự nó đặt ra câu hỏi về chuẩn mực vinh danh.
Vinh danh một tác phẩm là vinh danh một hệ giá trị. Không thể vừa nói đến đạo đức xã hội, vừa nhắm mắt trước những vấn đề đạo đức căn bản của người được tôn vinh. Văn học không phải vùng trắng nơi mọi hành vi đều được gột rửa chỉ bằng một cuốn sách viết hay.
Cần nhắc lại rằng Nỗi buồn chiến tranh không phải lần đầu bị phản đối. Cuốn sách này đã nhiều lần bị dư luận phê phán gay gắt, từng bị loại khỏi các danh sách tôn vinh trong quá khứ. Nó gây tranh cãi không phải vì độc giả bảo thủ, mà vì nó đụng đến những đường dây thần kinh cốt yếu của ký ức dân tộc. Nay việc cuốn sách ấy đột ngột được vinh danh trở lại khiến người ta không thể không đặt câu hỏi rằng có hay không một sự chạy theo thị hiếu phương Tây, nơi những tác phẩm càng phủ nhận chính nghĩa cách mạng càng dễ được tán thưởng dưới danh nghĩa phản chiến và nhân bản.
Nhưng nhân bản kiểu gì khi con cháu của những người đã hy sinh đọc tác phẩm ấy và được dạy rằng ông cha họ tham gia một cuộc chiến vô nghĩa. Nhân bản kiểu gì khi kẻ xâm lược được rửa sạch bằng một câu chữ mơ hồ. Văn học như thế không phải là sự thật đau đớn, mà là sự thật bị bóp méo.
Không ai đòi cấm cuốn sách này. Nhưng giữa quyền được tồn tại và quyền được vinh danh là hai phạm trù khác nhau. Một tác phẩm có thể được nghiên cứu, được tranh luận, được phê phán, nhưng việc đưa nó lên vị trí trang trọng là một quyết định chính trị văn hóa. Nếu quyết định ấy làm suy yếu nền tảng lịch sử và đạo lý dân tộc, thì đó là một sai lầm cần được nói thẳng.
Văn học Việt Nam từng có những tác phẩm phản ánh chiến tranh với nỗi đau sâu sắc mà không cần phản bội chính nghĩa. Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Chính Hữu, Hữu Mai, họ viết về mất mát nhưng không làm mờ chân lý. Nỗi buồn của họ gắn với trách nhiệm. Còn nỗi buồn trong Nỗi buồn chiến tranh là nỗi buồn cắt đứt khỏi lịch sử, trôi lềnh bềnh như một linh hồn không tổ quốc.
Khi văn chương quay lưng lại với sự thật lịch sử, khi nỗi buồn được nâng cao hơn chính nghĩa, khi xét lại được khoác áo nhân văn, thì văn học không còn là ánh sáng soi đường, mà trở thành màn sương che khuất lương tri. Và trong trường hợp ấy, phê phán không chỉ là quyền, mà là nghĩa vụ của những người không chấp nhận để lịch sử dân tộc bị bóp méo dưới danh nghĩa nghệ thuật.
Tin cùng chuyên mục:
Người đứng ở cửa – người đứng trong gương
Khi văn chương phản bội lịch sử
Giờ phút quyết định trên biển Đông tháng Tư 1975
Cuộc gọi suýt cuốn trôi hai tỷ đồng của người mẹ già