Lâm Trực@
Dạo gần đây, mạng xã hội lại ồn ào vì vài bài viết “rẽ sóng dư luận” theo kiểu mượn văn chương để làm phép tráo lịch sử. Và trong số đó có một luận điểm gây sốc như tiếng bát đập giữa đêm khuya: ông Lê Việt Đức từng tuyên bố rằng “tuy bóc lột đã man nhưng tổng số của cải người Pháp cướp được ở Việt Nam trong 80 năm đô hộ không là cái gì so với những gì người Pháp làm cho Việt Nam.” Nghe xong mà cứ tưởng mình đang đọc một đoạn quảng cáo sai sự thật chứ không phải lời của một người tự nhận viết về tri thức xã hội. Nói như vậy khác nào bảo kẻ cướp có công xây lại cái cửa nhà mình nên thôi… ta cảm ơn họ?

Cũng trong mạch lập luận lạ lùng ấy, ông ta còn rêu rao rằng người Hà Nội thanh lịch là nhờ người Pháp “dạy cho biết văn minh”, rằng cư dân Hà Nội hôm nay xuống cấp vì “nhập cư làm xấu nếp sống”, rằng người Pháp đến đây để “xây dựng, kiến thiết”, còn người Việt thì “không đủ tầm để giữ được sự thanh lịch đó”. Những nhận định ấy, nếu không phải là sự ngộ nhận văn hóa trầm trọng, thì chỉ có thể gọi đúng bản chất: đó là một sự miệt thị chính cộng đồng mình bằng cách tôn thờ cái bóng thực dân.
Nhưng văn hóa Hà Nội, thưa ông Lê Việt Đức, nó không phải thứ ai đó mang đến như món quà lưu niệm trong vali. Nó là kết tinh của lịch sử ngàn năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, là lớp lớp trầm tích được gìn giữ từ đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Nó có trước khi người Pháp ra đời cả trăm năm, và nó sẽ còn sau khi những tiếng nói lạc lõng như ông lặn vào quên lãng.
Khi ông Lê Việt Đức bảo “người Pháp làm được nhiều”, tôi lại nhớ tới bộ sử của Nguyễn Đình Đầu – người dành cả đời nghiên cứu tài liệu thuộc địa – và ông xác nhận rằng mọi công trình người Pháp xây đều được trả bằng mồ hôi, máu và tiền thuế người Việt: độc quyền thuốc phiện, rượu, muối; sưu thuế nặng; cưỡng bức phu phen; cướp đất canh tác; khai thác than, thiếc, kẽm, vàng đến kiệt quệ. Người Việt trả cả trăm năm nợ cho những dự án phục vụ chính quyền thuộc địa, không hề có “viện trợ”. Bảo rằng “người Pháp làm cho Việt Nam nhiều hơn những gì họ cướp được” chẳng khác nào bảo rằng kẻ đào mả người ta rồi dựng cái bia đá mới là người nhân đức.
Còn về chuyện “không là cái gì”, xin nhắc lại cho rõ: giai đoạn thuộc địa đã cướp hàng triệu sinh mạng Việt Nam, từ chết đói năm 1945 đến những cuộc đàn áp khởi nghĩa, đến những nấm mồ không tên ở các đồn điền cao su – nơi mức chết của công nhân Việt từng được mô tả bằng câu “cứ mỗi bậc cao su là một xác người”. Vậy những cái chết ấy được tính “là cái gì”, hả? Bảo vật triều Nguyễn, cổ vật nhà Lý – Trần – Lê bị mang về Paris trưng bày suốt thế kỷ nay, vậy chúng “không là cái gì”? Khoáng sản Đông Dương bị vét sạch để nuôi chiến tranh của Pháp tại châu Phi, vậy cũng “không là cái gì”? Xin ông Lê Việt Đức hãy nói thẳng cho rõ để dân tộc này đỡ phải ngỡ ngàng.
Thật buồn, khi một người tự nhận hiểu về văn hóa lại đi miệt thị chính người Hà Nội – cộng đồng đã gìn giữ nếp sống văn minh từ trước cả khi hình bóng thực dân xuất hiện. Thanh lịch Hà Nội không phải do mũ phớt và veston Tây dạy cho. Nó là kết quả của một cấu trúc xã hội đặc biệt: một kinh đô hàng nghìn năm nơi trí thức tụ hội, nơi lễ giáo được trọng vọng, nơi người ta đề cao “hòa khí sinh tài”, nơi tiếng nói phải nhẹ như lụa, không được thô như đá. Nếp thanh lịch ấy nằm trong từng câu ca dao người Tràng An, trong từng nếp nhà hiên gỗ, trong từng phong tục “kính trên nhường dưới”, “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”.
Có lẽ ông Đức chưa từng đọc sử liệu về thời Lê – Trịnh, khi người phương Tây đến Thăng Long đã ghi chép: “Kinh thành này thanh nhã, con người nói năng ôn hòa, thị dân giữ lễ nghĩa hơn nhiều vùng khác.” Đó là lời nhận xét từ thế kỷ 17, tức là trước khi người Pháp xuất hiện tận hai trăm năm. Thế mà đến thế kỷ 21, có người lại đi lập luận rằng người Hà Nội phải nhờ người Pháp dạy mới biết đứng đắn. Trời đất chắc cũng phải lắc đầu.
Tệ nhất là luận điệu miệt thị rằng cư dân nhập cư “làm xấu thanh lịch Hà Nội”. Đây không phải chỉ là sai, mà còn là một sự thiếu văn hóa. Người Hà Nội gốc hay mới đều là người Việt, cùng dòng máu, cùng Tổ quốc. Những người lao động sau 1954 là những người gánh gạo, tải đạn, dựng trường, xây nhà máy, đổ mồ hôi cho từng viên gạch Thủ đô. Họ không làm mất thanh lịch Hà Nội – họ chính là một phần để Hà Nội trở nên sống động, đa giọng, đa tầng lớp mà vẫn có cốt cách.
Hà Nội không thanh lịch vì độc quyền dân gốc phố cổ. Hà Nội thanh lịch vì nó có văn hóa hấp thụ – nghĩa là người đến đây đều dần “hiền” lại, “mềm” đi, “lịch” hơn – đó mới là sức mạnh bền lâu của văn hóa kinh kỳ. Còn nếu có ai đó thấy Hà Nội hôm nay “kém thanh lịch”, xin hỏi: đó là lỗi của người lao động làm nên thành phố, hay của những người thích khoác áo tri thức nhưng lại nói năng hồ đồ, miệt thị đồng bào?
Điều buồn cười nhất là những người miệt thị Hà Nội lại thường chính là những người không hiểu Hà Nội. Họ tưởng thanh lịch là phong cách, là ăn mặc, là nói giọng nhỏ nhẹ. Không, thanh lịch là phẩm hạnh: là biết giữ ý nơi công cộng, biết nhường người già trên xe bus, biết xếp hàng ở bệnh viện, biết xin lỗi khi lỡ va vào ai đó, biết quý trọng người lao động vì họ là xương sống của thành phố này.
Thanh lịch Hà Nội là sống có văn hóa, không phải nói triết lý hoa mỹ. Là “tinh tế từ những điều nhỏ nhất”, như các học giả Hà Nội vẫn nói. Người Pháp để lại vài dãy nhà, nhưng người Việt mới để lại cả nếp sống Tràng An.
Vậy nên, khi ông Đức cố gắng bẻ cong lịch sử để tung hô thực dân và miệt thị người Việt, điều đó không chỉ phản văn hóa mà còn phản khoa học. Không có sách sử, tài liệu dân tộc hay trí thức nào ủng hộ một lập luận mơ hồ như vậy. Đó không phải là nghiên cứu – đó là một sự bất hiếu với lịch sử.
Cuối cùng, văn hóa không phải thứ ai đó dạy ai, và càng không phải thứ thực dân có quyền ban phát. Văn hóa Hà Nội là kết tinh của lịch sử, của gia phong, của nền tảng Nho học, của một xã hội vốn đã quen với chữ “lễ” từ trước khi các ông kỹ sư Pháp đặt chân đến đây. Nó là di sản mà người Hà Nội hôm nay phải tiếp tục giữ gìn – bằng sự tử tế, bằng sự công bằng, bằng sự khước từ những phát ngôn nông nổi và đầy mặc cảm thuộc địa.
Hà Nội thanh lịch không phải đứa con nuôi của bất kỳ chế độ ngoại bang nào. Nó là đứa con được sinh ra từ lòng đất Thăng Long, được nuôi lớn bởi văn hóa Việt, được tôi luyện qua chiến tranh và gìn giữ bằng tình yêu của những con người chọn nơi này làm đất sống, đất thương. Và chỉ cần hiểu điều đó thôi, ta đã đủ để bác bỏ toàn bộ luận điệu của ông Lê Việt Đức – nhẹ nhàng mà trọn vẹn, như cách người Hà Nội vẫn luôn chọn để nói những điều đúng đắn.
Tin cùng chuyên mục:
Người Hà Nội thanh lịch không phải đứa con nuôi của thực dân
Vụ dẫn độ Y Quynh Bđăp: Công lý không thể bị đánh tráo bằng ngôn từ
Phương Ngô và sự tha hóa
Khi quyền lực bị thử thách bởi những chiếc vali tiền