Lâm Trực@
Trong những năm gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện không ít bài viết mang giọng điệu “hoài niệm” về thời Pháp thuộc, cho rằng người Pháp đã “làm được nhiều hơn Việt Nam trong 80 năm” và rằng “nếu không có người Pháp, Việt Nam chẳng có gì cả”. Gần đây, bài viết của Lê Việt Đức và đoạn chia sẻ đi kèm của Nguyễn Thái Minh là ví dụ điển hình của cách nhìn lệch lạc, nửa vời và nguy hiểm ấy – khi cố tình quên đi bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đồng thời thần thánh hóa một giai đoạn đen tối của dân tộc.

Trước hết, cần khẳng định rõ: người Pháp đến Việt Nam không phải để khai hóa, mà để khai thác. Chính Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer – người mà bài viết nói trên tôn vinh như “kiến trúc sư hiện đại hóa Việt Nam” – đã viết trong tác phẩm L’Indochine française (1904):
“Il faut que l’Indochine se suffise à elle-même et contribue aux bénéfices de la France.” – (Phải làm cho Đông Dương tự nuôi lấy mình và đóng góp lợi nhuận cho nước Pháp.)
Câu nói này là tuyên ngôn rõ ràng nhất về mục tiêu của Pháp tại Việt Nam: biến Đông Dương thành một cỗ máy nộp thuế, cung cấp nguyên liệu, nhân công và thị trường tiêu thụ hàng hóa cho chính quốc. Toàn bộ hệ thống cầu đường, đường sắt, cảng biển, nhà hát, trường học mà họ xây dựng đều phục vụ cho việc vận chuyển tài nguyên, kiểm soát quân sự và thu thuế, chứ không nhằm phát triển dân sinh như những người ngây thơ (hoặc cố tình ngây thơ) tưởng tượng.
Cầu Long Biên chẳng hạn, được xây dựng năm 1899–1902, chủ yếu để vận chuyển than từ Hòn Gai, lúa gạo từ Bắc Ninh, Bắc Giang, và binh lính Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội. Tuyến đường sắt xuyên Đông Dương không phải để “mở mang đất nước”, mà là xương sống của chiến lược khai thác thuộc địa lần thứ nhất, gắn liền với việc kiểm soát mỏ than, đồn điền và quân sự hóa vùng biên. Đường sắt Yên Bái – Lào Cai – Côn Minh chẳng phải “tặng phẩm văn minh”, mà là tuyến máu chảy để hàng hóa Việt Nam chảy sang Pháp, còn hàng hóa Pháp chảy ngược lại vào thị trường thuộc địa.
Không thể nói người Pháp “không khai thác được gì ở Việt Nam”. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1897–1914, theo Bulletin économique de l’Indochine, lợi nhuận ròng của các công ty Pháp tại Đông Dương tăng hơn 10 lần, riêng các công ty khai thác than như Hòn Gai, Cẩm Phả, Mạo Khê đã chiếm 70% sản lượng toàn khu vực Đông Dương, chủ yếu xuất khẩu về chính quốc. Những “công trình” họ để lại được xây bằng mồ hôi, máu và thuế thân của người Việt. Mỗi năm, hàng trăm nghìn dân phu bị bắt đi làm không công dưới cái gọi là corvée – “lao dịch bắt buộc” – để phục vụ các công trình đường sắt, cầu cống, đồn điền. Tư liệu của nhà sử học Philippe Papin (Histoire de Hanoi, 2001) ghi rõ: năm 1901, một nửa ngân sách xây dựng của Pháp ở Bắc Kỳ đến từ thuế dân bản xứ.
Đó không phải là “văn minh”, mà là văn minh tàn bạo hóa.
Những người như Lê Việt Đức cố tình đánh tráo khái niệm khi so sánh 80 năm thuộc địa với hơn 70 năm độc lập. Họ quên rằng một bên là nước nô lệ, một bên là quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh. Khi Pháp rút đi, Việt Nam không phải là một “xứ sở văn minh”, mà là một đất nước kiệt quệ: hơn 90% dân số mù chữ, tuổi thọ trung bình chỉ hơn 30, sản lượng công nghiệp chiếm chưa tới 1% GDP, và hơn 2 triệu người chết đói trong nạn đói 1945 – hậu quả trực tiếp của chính sách vơ vét lúa gạo của chính quyền Pháp – Nhật.
Nếu có “trí thức giỏi giang” nào được đào tạo thời ấy thì phần lớn cũng chỉ là tầng lớp nhỏ được nuôi dưỡng để phục vụ bộ máy cai trị. Giáo dục Pháp-Việt chỉ đào tạo viên chức thấp cấp, thông ngôn, ký lục – chứ không tạo ra một hệ thống đại học độc lập hay khoa học bản địa. Trong khi đó, chính chế độ độc lập sau 1945 mới đưa đến phổ cập giáo dục, bình đẳng học tập, mở rộng đại học và nghiên cứu khoa học. So sánh như ông Đức là phi lý: một bên xây cầu để chở than, bên kia dựng trường để dạy người.
Còn về luận điệu “Việt Nam phá sạch tài nguyên”, đó là sự xuyên tạc nguy hiểm. Thực tế, Việt Nam sau 1954 phải vừa tái thiết đất nước sau chiến tranh, vừa khôi phục nền công nghiệp gần như trắng tay do Pháp để lại. Trong khi Pháp chiếm hàng trăm năm để hút máu thuộc địa, thì Việt Nam chỉ mới vài chục năm hội nhập và đang chuyển mạnh sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững – điều mà chính nước Pháp cũng phải học hỏi.
So sánh Việt Nam với Paul Doumer là một kiểu ngụy biện cảm tính. Doumer chỉ cần vẽ vài tuyến đường, ký vài hợp đồng với các công ty tư bản Pháp, rồi dùng sức dân Việt mà làm. Còn Việt Nam hôm nay phải xây dựng bằng nguồn lực của chính mình, dưới cơ chế thị trường toàn cầu hóa, cạnh tranh khốc liệt, và vẫn đảm bảo an sinh xã hội cho hàng chục triệu người. So sánh ấy chẳng khác nào khen tên cướp “giỏi” vì xây được cái nhà từ của cải cướp được.
Đáng nói hơn, kiểu “ca ngợi thực dân” này còn thể hiện sự vong thân trí thức. Nó phủ nhận xương máu của những thế hệ đã ngã xuống để giành lại độc lập. Hàng triệu người đã chết trong các phong trào Cần Vương, Yên Thế, Đông Du, Xô viết Nghệ Tĩnh… để chấm dứt ách nô lệ, chứ không phải để hôm nay có người ngồi trên mạng xã hội ca ngợi “ông Tây làm cầu đẹp”. Một dân tộc tự trọng không thể tán dương kẻ đã trói tay mình, chỉ vì sợi xích trông có vẻ sáng loáng.
Chủ nghĩa thực dân Pháp chưa bao giờ có mục tiêu “làm cho Việt Nam tốt hơn”. Chính Thống chế Hubert Lyautey, một viên chức cao cấp của Pháp, từng thẳng thừng thừa nhận: “La colonisation n’est pas une œuvre d’humanité, mais d’intérêt.” – (Chủ nghĩa thực dân không phải là công trình nhân đạo, mà là công trình của lợi ích.)
Lợi ích ấy là của Pháp – và nỗi đau là của Việt Nam.
Vì thế, nói như nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, “mọi cây cầu, con đường, nhà hát mà người Pháp xây đều là bằng chứng cho tội lỗi của họ, chứ không phải công ơn.” Chúng ta có thể bảo tồn những công trình đó như di sản vật chất, nhưng tuyệt đối không thể biến chúng thành biểu tượng cho “ơn khai hóa”.
Một dân tộc biết ơn lịch sử là dân tộc dám đối diện sự thật, chứ không phải dân tộc thần thánh hóa kẻ đã áp bức mình. Lịch sử không cần được “đánh bóng”, càng không cần được “bào chữa” bằng lời ca tụng của những kẻ quên gốc.
Thời của Paul Doumer đã qua. Thời của một Việt Nam độc lập, tự chủ, sáng tạo mới là điều đáng tự hào.
Tin cùng chuyên mục:
Cái kết có hậu của một người Nga “mất tích” tại Việt Nam
Hồi kết cuộc chiến Nga – Ukraine
Đánh thức di sản Hà Nội: hành trình của ký ức, con người và tương lai
Những dòng nước đen ẩn dưới màn hình