Hà Nội 12 Ngày Đêm Khói Lửa: Bản hùng ca lịch sử

Người xem: 133

Tròn 50 năm trước, Hà Nội, Hải Phòng và nhiều địa phương ở miền bắc đã trải qua 12 ngày đêm không ngủ trong chiến dịch không kích hủy diệt của đế quốc Mỹ. Riêng tại Hà Nội, trong 12 ngày đêm khói lửa (từ ngày 18/12 – 29/12/1972), Mỹ đã tiến hành cuộc ném bom rải thảm, trút xuống một khối lượng bom đạn khổng lồ tương đương sức công phá của 2 quả bom nguyên tử đã ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) tháng 8/1945. Cũng trong 12 ngày đêm ấy, quân và dân Hà Nội đã khiến “siêu pháo đài bay B-52” thất trận lần đầu tiên trong lịch sử và không quân Mỹ phải chịu thiệt hại nặng nề. Chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” đã tạo bước ngoặt và đòn quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973.

 

Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, đế quốc Mỹ đã phá vỡ đàm phán và bí mật lập kế hoạch chuẩn bị chiến dịch mang mật danh Linebacker II” vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và 1 số địa phương ở miền bắc cuối tháng 12/1972. Nhưng với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Bác Hồ đã dự đoán trước được âm mưu và thủ đoạn đó của địch, lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta chủ động mở chiến dịch phòng không đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 của địch, làm nên Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”.

Sau 8 năm đưa quân trực tiếp vào tham chiến trên chiến trường miền nam, Mỹ liên tiếp bị thất bại về quân sự. Tại nước Mỹ, làn sóng biểu tình phản đối chiến tranh, đòi chính quyền Nixon phải rút quân Mỹ ra khỏi chiến tranh Việt Nam ngày càng dâng cao. Về ngoại giao, Mỹ bị cộng đồng quốc tế lên án trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trước những bất lợi về quân sự, chính trị, ngoại giao, Mỹ muốn rút quân trong danh dự và tiếp tục cuộc chiến tranh mà không có quân Mỹ ở Việt Nam.
 
Để thực hiện ý đồ đó, cuối năm 1972, Nixon mở cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng B-52, hòng đưa miền bắc Việt Nam quay trở về “thời kỳ đồ đá”, không còn tiềm lực chi viện cho miền nam, gây sức ép buộc ta phải nối lại các cuộc đàm phán ở Paris, chấp nhận theo sửa đổi của Mỹ và xoa dịu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, những toan tính của chính quyền Nixon đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta dự đoán từ rất sớm.
 
Với dự cảm thiên tài, ngay từ năm 1962, Bác Hồ đã giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Phùng Thế Tài: “Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về B-52 chưa? Nói thế thôi chứ chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên 10 cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B-52 này” .
 
Ngày 22/10/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra Quyết định số 50 thành lập Quân chủng Phòng không – Không quân trên cơ sở hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ.
 
Theo dõi sát tình hình chiến trường miền nam và những động thái của không quân Mỹ, ngay từ đầu năm 1964, khi đến thăm Bộ đội Phòng không, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các chú phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền bắc nước ta”.
 
Đầu tháng 8/1964, sau khi dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, chính quyền Johnson sử dụng không quân đánh phá miền bắc. Trước hết, chúng tập trung đánh phá Đồng Hới (Quảng Bình), Vĩnh Linh (Quảng Trị)… sau đó leo thang đánh sâu vào bắc Vĩ tuyến 20 với quy mô ngày càng lớn. Chưa hết, buộc phải thi hành “chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam mà chiến sự vẫn không khả quan, với mong muốn thay đổi tình thế và tạo sự răn đe, ngày 18/6/1965, đế quốc Mỹ đã dùng máy bay B-52 ném bom căn cứ Long Nguyên của ta ở Bến Cát (Bình Dương).
 
Trước hành động leo thang của Mỹ, ngày 19/7/1965 khi thăm cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 Đoàn Tam Đảo, Bộ đội phòng không – không quân, Bác căn dặn: “… Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B-57, B-52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng…Phải nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, có quyết tâm thì làm gì cũng được”.
 
Đến tháng 3/1966, Bác đến thăm Quân chủng Phòng không – Không quân, chỉ đạo cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng: “Mỹ đã đưa B-52 vào chiến trường Việt Nam, liên tiếp gây tội ác với đồng bào ta ở nam. Ngay từ bây giờ, các chú phải nghiên cứu, chuẩn bị đối phó với B-52, vì sớm hay muộn, Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh phá miền bắc. Tên lửa của ta có đủ làm cho bắn rơi được máy bay B-52 của Mỹ, nhưng đánh thế nào để thắng, cần nghiên cứu Nhiệm vụ này. Bác giao cho các chú. Chúng ta phải quyết tâm bắn rơi máy bay B-52, phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…”.
 
Đầu Xuân 1968, sau khi nghe báo cáo của đồng chí Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đồng chí Đặng Tính, Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua… Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.
 
Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua… Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chuẩn bị lực lượng
 
Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ. Giai đoạn này, nhiều đoàn cán bộ của Quân chủng Phòng không – Không quân cùng một số trung đoàn tên lửa, radar và biên đội không quân tiêm kích được cử vào Khu 4 để nghiên cứu cách đánh B-52.
 
Đầu năm 1970, tổng kết kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc lần thứ nhất của Mỹ, các cơ quan chỉ đạo chiến lược dự đoán sâu sắc hơn khả năng địch sẽ dùng không quân và hải quân đánh lại miền bắc với quy mô lớn, ác liệt.
 
Trên cơ sở dự báo của Bác, căn cứ vào cục diện chiến trường miền nam, năm 1971, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhận định: “Năm 1972 hoặc là địch sẽ rút nếu đạt được giải pháp; nếu chưa được chúng có thể tập trung không quân đánh phá. Ta cần có biện pháp đề phòng”.
 
Tháng 11/1972, trong cuộc họp quan trọng của Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định: “Âm mưu của Mỹ cho B-52 đánh Thủ đô Hà Nội-linh hồn của cuộc kháng chiến sẽ là hành động gây sức ép cuối cùng để buộc chúng ta phải nhân nhượng. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết đánh thắng chúng trên bầu trời Thủ đô”.
 
Đúng như dự đoán, ngày 14/12/1972, Richard Nixon chính thức phê chuẩn kế hoạch tập kích chiến lược B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền bắc với mật danh Linebacker II (nghĩa là Cứu bóng trước khung thành II) để cứu vãn Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, gây sức ép buộc ta phải chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều khoản sửa đổi của chúng.
 
Tổng thống Mỹ Nixon và Nhà trắng tự tin khi sử dụng B-52 có thể “ném bom vào bất cứ mục tiêu nào trên lãnh thổ bắc Việt Nam, như đi dạo chơi vào chỗ trống” và sẽ “đưa miền bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”.
 
Trong cuộc Tập kích đường không (TKĐK) chiến lược này, chúng đã sử dụng máy bay chiến lược B-52: 197/tổng số 400 chiếc hiện có của quân đội Mỹ; máy bay không quân chiến thuật: 1.077/tổng số 3.043 chiếc (có 1 biên đội máy bay F.111 khoảng 50 chiếc); tàu sân bay: 6/24 chiếc; hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số loại máy bay phục vụ khác như: máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược, chiến thuật, máy bay chỉ huy, liên lạc dẫn đường, cấp cứu cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.

 

– Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh mở cuộc tập kích bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền bắc.

– Sáng 18/12/1972, Phủ Thủ tướng điện chỉ đạo các bộ, cơ quan và một số địa phương: “Địch có thể ném bom Hà Nội – Hải Phòng, cần thực hiện tốt kế hoạch sơ tán nhân dân của thành phố”. Bộ Tổng Tham mưu điện chỉ đạo các đơn vị: “Đề phòng địch dùng B-52 đánh phá các mục tiêu trọng điểm. Các binh chủng: pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa, không quân, pháo binh sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đánh trả máy bay, tàu chiến địch. Tổ chức quan sát, báo động, sơ tán, đào hầm hào, phối hợp với Công an và nhân dân làm tốt công tác bảo vệ an ninh, bảo vệ tài sản…”.
 
+ 18 giờ 50 phút, Quân chủng Phòng không – Không quân chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp 1.
 
+ 19 giờ 10 phút, Đại đội ra-đa 16 phát hiện nhiễu B-52.
 
+ 19 giờ 15 phút, Trung đoàn 291 phát hiện B-52 và báo cáo: “B-52 đang vào miền bắc”.
 
+ 19 giờ 25 phút, không quân ta được lệnh cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật của địch.
 
Từ 19 giờ 25 phút đến 20 giờ 18 phút, nhiều tốp B-52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm.
 
+ 19 giờ 44 phút, quả đạn tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78 thuộc Trung đoàn Tên lửa 257 được phóng lên – cuộc chiến đấu 12 ngày đêm của lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu.
 
Trung đoàn Tên lửa 261 được lệnh đánh tập trung, tiêu diệt tốp máy bay 671 từ hướng Tam Đảo đánh phá các kho tàng ở Đông Anh, Cổ Loa. Một kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 59 đã phóng 2 quả đạn từ cự ly thích hợp, hạ 1 máy bay B-52. Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội, cách trận địa chưa đầy 10 km.
 
Thắng lợi hạ gục tại chỗ “Siêu pháo đài bay B-52” ngay trong đêm đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng và tác chiến, giải tỏa những lo lắng, băn khoăn của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh và tất cả cán bộ, chiến sĩ trực tiếp chiến đấu bảo vệ Hà Nội.
 
Đêm 18 rạng ngày 19/12, Mỹ huy động 90 lần chiếc B-52 ném 3 đợt bom xuống Thủ đô Hà Nội, xen kẽ có 8 lần chiếc F-111 và 127 lần chiếc máy bay cường kích; ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc Thủ đô Hà Nội, 85 khu vực dân, làm chết 300 người. Quân và dân ta anh dũng chiến đấu, bắn rơi 6 máy bay các loại, trong đó có 3 máy bay B-52 (2 chiếc rơi tại chỗ).
 
– Sáng 19/12/1972, Bộ Chính trị họp, chỉ đạo về đánh máy bay B-52. Đêm 19/12, máy bay B-52 tiếp tục ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Nguyên, Nam Định.
 
Riêng ở Hà Nội, địch sử dụng 87 lần chiếc B-52 và hơn 200 lần chiếc máy bay cường kích ném 3 đợt bom xuống 68 điểm thuộc nội và ngoại thành. Các lực lượng phòng không ba thứ quân của ta đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 1 máy bay B-52; 1 máy bay F-4.
 
Những ngôi nhà bị sập nát sau trận bom B-52 chết chóc của không quân Mỹ đánh phá miền bắc năm 1972 (Nguồn ảnh: Biên niên sử truyền hình)
 
– Đêm 20/12/1972 (bắt đầu từ lúc 19 giờ 27 phút), địch sử dụng 93 lần chiếc B-52 và hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích các loại vào đánh phá Hà Nội và một số mục tiêu ở khu vực Hải Phòng, Thái Nguyên.
 
Rút kinh nghiệm các trận đánh trước, quân và dân ta đã anh dũng, mưu trí, lập công xuất sắc: chỉ với 35 quả đạn đã bắn rơi 7 chiếc B-52 (có 5 chiếc rơi tại chỗ). Đại đội tự vệ của 3 nhà máy (Cơ khí Mai Động, Gỗ Hà Nội và Cơ khí Lương Yên), bằng 19 viên đạn 14,5 mm đã bắn rơi 1 máy bay F-111 “cánh cụp cánh xòe” của địch.
 
– Ngày 21/12/1972, địch sử dụng 180 lần chiếc máy bay chiến thuật; ban đêm địch huy động 24 lần chiếc B-52, 36 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá các mục tiêu trọng yếu của ta tại Hà Nội và một số khu vực tại Bắc Giang, Hải Phòng.
 
Phát huy khí thế chiến thắng của 3 ngày trước, quân và dân ta đã bắn rơi 11 máy bay, trong đó có 3 chiếc B-52; 2 chiếc F-4; 2 chiếc A-7; 1 chiếc F-111; 1 chiếc A-6; 1 chiếc RA-50; 1 chiếc F-105.
 
– Ngày 22/12/1972, ban ngày, địch sử dụng 56 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá các mục tiêu quanh Hà Nội; ban đêm, địch sử dụng 24 lần chiếc B-52 và 30 máy bay chiến thuật hộ tống, cùng 9 máy bay F-111 đánh các mục tiêu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh…, các lực lượng vũ trang và Nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, kiên cường, bắn rơi 6 máy bay; trong đó, bắn rơi tại chỗ 3 chiếc B-52; 1 chiếc F-111; 1 chiếc F-4.
 
– Ngày 23/12/1972, ban ngày, địch sử dụng 54 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá các khu vực ngoại thành Hà Nội; ban đêm, địch sử dụng 33 chiếc B-52 đánh Đồng Mỏ (Lạng Sơn) và khu vực Bắc Giang; 30 máy bay F-4 và F-105 và 7 máy bay chiến thuật của Hải quân, 11 máy bay F-111 đánh phá các sân bay: Nội Bài, Yên Bái,Kiến An (Hải Phòng) và một số mục tiêu tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Ta bắn rơi 4 máy bay, trong đó có 2 chiếc B-52; 1 chiếc F-4; 1 chiếc A-7.
 
– Ngày 24/12/1972, ban ngày, địch sử dụng 44 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá khu vực Thái Nguyên, Hà Bắc; ban đêm, địch sử dụng 33 lần chiếc B-52, 39 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt Ga Kép, Bắc Giang, các sân bay Yên Bái và khu vực Vĩnh Tuy (Hà Nội). Quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 5 máy bay: 1 chiếc B-52; 2 chiếc F-4; 2 chiếc A-7.
 
Trước những thất bại nặng nề, 24 giờ 00 ngày 24/12, lấy cớ nghỉ lễ Noel, địch tạm ngừng tập kích để củng cố tinh thần, lực lượng và tìm thủ đoạn đánh phá mới.
 
– Ngày 25/12/1972, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương nhận định: địch sẽ đánh phá trở lại Hà Nội ác liệt hơn, quân và dân thủ đô Hà Nội cùng các địa phương miền bắc cần rút kinh nghiệm các trận đánh trước, tiếp tục củng cố tinh thần, lực lượng đánh địch trong những ngày tới. Tranh thủ thời gian địch ngừng đánh phá, cán bộ, chiến sĩ lực lượng phòng không ba thứ quân của các địa phương, nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã khẩn trương rút kinh nghiệm, tìm cách đánh, kịp thời ứng phó với các thủ đoạn đánh phá của địch.
 
– Ngày 26/12/1972, từ 13 giờ 00 đến tối, địch sử dụng 56 lần chiếc máy bay cường kích các loại ném bom dữ dội các khu vực trận địa tên lửa và trạm biến thế Đông Anh.
 
Từ 22 giờ 05 phút đến 23 giờ 20 phút, địch sử dụng 105 lần chiếc B-52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống đánh phá ồ ạt, liên tục vào nhiều mục tiêu khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, ném bom rải thảm dữ dội tàn phá tất cả các mục tiêu nội, ngoại thành Hà Nội, đặc biệt là phố Khâm Thiên và khu phố Hai Bà Trưng, Hà Nội.
 
Phố Khâm Thiên tan hoang sau các trận không kích điên cuồng của không quân Mỹ trong 12 ngày đêm năm 1972 (Ảnh: TTXVN)
 
Hơn một giờ chiến đấu anh dũng, lực lượng phòng không ba thứ quân của Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã bắn rơi 8 máy bay B-52 (riêng Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, trong đó 4 chiếc rơi tại chỗ) và 10 máy bay chiến thuật khác (đây là trận đánh then chốt, quyết định nhất, bắn rơi nhiều máy bay B-52 nhất trong 9 ngày chiến đấu). Trong trận này, lần đầu tiên Trung đoàn 252, Quân khu Việt Bắc đã bắn rơi 1 chiếc B-52 bằng pháo cao xạ 100 mm.
 
– Ngày 27/12/1972, buổi sáng, địch huy động 100 lần chiếc máy bay chiến thuật; ban đêm, địch tăng cường huy động 36 lần chiếc B-52, 66 lần chiếc máy bay chiến thuật yểm hộ, xen kẽ, địch dùng 17 lần chiếc F-111 tập trung đánh phá dữ dội vào khu vực Hà Nội.
 
Ngày và đêm 27/12, quân và dân miền bắc đã bắn rơi 14 máy bay trong đó có 5 chiếc B-52; 5 chiếc F-4; 02 chiếc A-7; 1 chiếc A-6; 1 máy bay lên thẳng HH-53.
 
Xác máy bay B-52 bị tên lửa phòng không bắn rơi vào 23 giờ ngày 27/12/1972 trên phố Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
 
– Ngày 28/12/1972, ban ngày địch huy động 131 lần chiếc máy bay chiến thuật; ban đêm, địch sử dụng khoảng 60 lần chiếc B-52 đánh vào các mục tiêu ở khu vực nội, ngoại thành Hà Nội. Quân và dân ta tiếp tục chiến đấu dũng cảm, bắn rơi 3 máy bay, trong đó có 2 chiếc B-52 (1 chiếc do phi công Vũ Xuân Thiều lái chiếc máy bay MiG-21 tiêu diệt và đã anh dũng hy sinh); 1 chiếc RA-5C.
 
– Ngày 29/12/1972, do bị tổn thất nặng nề trong 11 ngày liên tiếp, máy bay B-52 của địch chỉ đánh một số địa phương vòng ngoài, không dám tập trung lực lượng ở toạ độ lửa Hà Nội nữa. Ban ngày, địch sử dụng 36 lần chiếc máy bay chiến thuật; ban đêm, địch huy động 60 lần chiếc B-52, 70 lần chiếc máy bay chiến thuật công kích các mục tiêu ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa và ngoại vi Hải Phòng, Quảng Ninh. Các đơn vị phòng không vòng ngoài của ta (tiểu đoàn 72, 78, 79) đã bắn rơi 2 máy bay (1 chiếc B-52, 1 chiếc F-4). Đây là trận đánh kết thúc thắng lợi 12 ngày đêm bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng và miền bắc nói chung cuối tháng 12/1972.
 
– 7 giờ sáng ngày 30/12/1972, Richard Nixon tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, ngừng ném bom từ Vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp tục đàm phán, ký kết Hiệp định Paris.
 
Trong 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B-52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném hơn 100 nghìn tấn bom, đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã miền bắc nước ta.
 
Riêng ở Hà Nội, địch sử dụng 441 lần chiếc B-52 cùng nhiều máy bay chiến thuật ném hàng ngàn tấn bom xuống các khu phố, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học… Chúng đã huỷ diệt nhiều phố xá, làng mạc; phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó có gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga; giết chết 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác, hủy diệt phố Khâm Thiên – khu vực có mật độ dân số đông nhất Hà Nội.
 
Kết quả
 
– Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972 quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ các loại, gồm: 34 chiếc B-52; 5 chiếc F-111A; 21 chiếc F-4CE; 4 chiếc A-6A; 12 chiếc A-7; 1 chiếc F-105D; 2 chiếc RA-5C; 1 chiếc trực thăng HH-53; 1 chiếc trinh sát không người lái 147-SC, bắt sống và diệt nhiều giặc lái. Quân chủng Phòng không – Không quân bắn rơi 32 trong tổng số 34 máy bay B-52 bị bắn rơi trong chiến dịch.
 
– Chỉ hơn 10 ngày, Không quân Hoa Kỳ đã mất gần 100 phi công, phần lớn phi công bị chết và bị bắt đều là những phi công kỳ cựu, có giờ bay rất cao. Thông thường trong chiến tranh, ở những trận tập kích đường không lớn, tỷ lệ tổn thất về máy bay của phe tiến công là khoảng 1-2%. Nhưng trong cuộc tập kích bằng đường không vào Hà Nội, riêng B-52 tỷ lệ tổn thất lên tới 17% (34/193 chiếc).
 
Tướng George Etter, Phó chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, ngày 30/12/1972, đã thú nhận trên tạp chí US.Air Forces (Không lực Hoa Kỳ): “Tổn thất về máy bay chiến lược B-52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc”.
 
Trong hồi ký của mình, Richard Nixon viết: “Nỗi lo của tôi trong những ngày này không phải là lo những làn sóng phản đối, phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là mức độ tổn thất về máy bay B-52 quá nặng nề”.
 
Với việc đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ, làm nên Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết.
 
Ý nghĩa lịch sử của “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”
 
Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” đã góp phần tạo ra bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản cục diện của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.
 
Chiến thắng “Hà Nội-Ðiện Biên Phủ trên không” để lại nhiều bài học quý trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:Một là, thường xuyên giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, Trung ương Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống chiến tranh. Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thành lập một số đơn vị phòng không và nhanh chóng điều chỉnh thế trận phòng không trên miền bắc; chỉ đạo Quân chủng Phòng không-Không quân xây dựng, hoàn chỉnh kế hoạch đánh B-52, tổ chức huấn luyện, diễn tập, bảo đảm kỹ thuật, nghi binh, sơ tán, kết hợp phòng tránh với đánh trả. Trong 12 ngày đêm chiến đấu (18-29/12/1972), Ðảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời, là nhân tố quyết định đưa Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng 1972 đi tới thắng lợi.
 
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phải thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và sự nghiệp quốc phòng.
 
Hai là, chú trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trong quá trình lãnh đạo kháng chiến, Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác nghiên cứu, dự báo tình hình. Cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua… Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.
 
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp. Do vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo chiến lược, bảo đảm thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược về quân sự-quốc phòng; xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Nghiên cứu, dự báo phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, chính xác, kịp thời; chú trọng tham mưu xử lý các tình huống quốc phòng, đấu tranh quốc phòng; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội.
 
Ba là, xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tháng 2/1957, Bộ Chính trị họp và thông qua kế hoạch xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Tháng 10/1963, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân chủng Phòng không-Không quân và yêu cầu xây dựng “Kế hoạch Phòng không nhân dân”, cử cán bộ đi đào tạo về phòng không, không quân. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cũng chú trọng xây dựng dân quân tự vệ rộng khắp để phối hợp chiến đấu với các lực lượng phòng không chủ lực.
 
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, phải coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, lấy xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành cơ bản điều chỉnh tổ chức, biên chế quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tạo nền tảng vững chắc đến năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại.
 
Bốn là, chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc. Trong Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng 1972, ta xây dựng thế trận phòng không ba thứ quân, hình thành ba cụm phòng không chiến dịch; chủ động chuyển hóa thế trận, điều chỉnh đội hình chiến đấu. Các lực lượng phòng không, không quân hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, đánh địch hiệu quả. Nhân dân miền bắc đóng góp hàng trăm triệu ngày công tu bổ, xây dựng sân bay, trận địa phòng không, công trình phòng tránh, cất giấu tài sản, sơ tán nhân dân… Ðó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân phát triển cao trong thực hiện phương châm “toàn dân tham gia bắn máy bay, vây bắt giặc lái”, “toàn dân tổ chức phòng không nhân dân”.
 
Vận dụng bài học này, Ðảng ta chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân và khu vực phòng thủ các cấp ngày càng vững chắc. Quân đội cần phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 64-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW và Nghị định số 21/2019/NÐ-CP ngày 22/2/2019 của Chính phủ về khu vực phòng thủ” gắn với thực hiện tốt Luật Quốc phòng và các chiến lược quân sự-quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng xây dựng và tổ chức sử dụng lực lượng phù hợp. Tập trung xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; tích cực triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể thế bố trí quốc phòng. Sẵn sàng đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống.
 
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thắng lợi của Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng 1972 là kết quả của quá trình phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Cùng với phát huy cao độ nội lực, nhân dân ta đã có sự giúp đỡ của chính phủ và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, các lực lượng cách mạng, dân chủ hòa bình và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
 
Vận dụng và phát huy bài học này, Ðảng ta xác định phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia-dân tộc. Toàn quân phải quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng và hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng và Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Quân đội lần thứ XI đã xác định. Công tác đối ngoại quốc phòng phải thực hiện nhất quán chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; vận dụng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược theo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
 
Chiến thắng “Hà Nội-Ðiện Biên Phủ trên không” là bản anh hùng ca hào hùng về bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Những bài học đúc kết từ chiến thắng oanh liệt này sẽ được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 
***
Ngày xuất bản: 12/2022
Bài viết của Báo Nhân dân

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *