Hoàng Tuấn Công
Trong phần I của bài viết chúng tôi đã chỉ ra những sai sót nghiêm trọng của Nhóm soạn giả khi biên soạn bài thuyết minh về con trâu và cây lúa. Có bạn đọc sẽ nghĩ rằng: sinh học không phải là địa hạt của các Thạc sĩ văn học, bởi vậy, nhóm soạn giả khó tránh khỏi sai sót, chúng ta nên thông cảm. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy. Khả năng cảm nhận, phân tích, hành văn của Nhóm soạn giả cũng có nhiều điều đáng nói. Ví dụ bài thơ “Nhớ rừng“, đoạn con hổ hồi tưởng về những tháng ngày tự do:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!”
Nhóm soạn giả đã phân tích như sau:
“Đó là những ngày mưa dữ dội như “chuyển bốn phương ngàn” làm núi rừng thay da đổi thịt mà con hổ lặng ngắm sự đổi thay của muôn vật trong niềm hân hoan phấn khởi. Đó là những ngày đầy nguy nan khi sống trong rừng bị con người truy sát, con hổ run sợ nép vào nơi bí mật đợi chết với cảm giác mặt trời chói gắt trên cao, thiêu đốt gan ruột mình. Tất cả những cảnh tượng ấy, mỗi cảnh tượng mang một vẻ riêng, có lúc thật rực rỡ huy hoàng, có khi êm đềm lãng mạn, có khi mạnh mẽ, dữ dội và có lúc đầy kinh hãi lo lắng nhưng đã làm nên cái quá khứ tự do huy hoàng oanh liệt của con hổ, là thủa con hổ được tung hoành làm chủ núi rừng trong sự vùng vẫy vô cùng khoáng đạt thênh thang.” (Đề 58-Bài “Nhớ rừng” tr.81-tập II)
Đoạn văn với những ý diễn xuôi, câu từ sáo rỗng, dài dằng dặc rất khó chấp nhận (câu cuối dài tới 77 chữ). Đáng trách hơn, các soạn giả đã hiểu câu thơ: “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” thành “con hổ run sợ nép vào nơi bí mật đợi chết với cảm giác mặt trời chói gắt trên cao, thiêu đốt gan ruột mình” và “Đó là những ngày đầy nguy nan khi sống trong rừng bị con người truy sát”, “đầy kinh hãi lo lắng“?
Có thể khẳng định, các vị Thạc sĩ văn học đã giảng bậy, hiểu sai hoàn toàn ý thơ của tác giả “Nhớ rừng“. Vì, câu thơ trên nằm trong đoạn hồi tưởng “Thuở tung hành hống hách những ngày xưa…” của chúa sơn lâm với sức mạnh vô song và quyền uy tuyệt đối: “Ta biết ta chúa tể của muôn loài, Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi…“, mỗi bước chân “ngài” đều “dõng dạc đường hoàng” (“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng“)…đâu có chuyện con hổ bị “truy sát”,”đầy kinh hãi lo lắng“?
Là “chúa tể muôn loài“, nên “những đêm vàng bên bờ suối“, những “bình minh cây xanh nắng gội”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những chiều lênh láng máu sau rừng“…tất cả thời gian, không gian tự do của “rừng xanh cao cả âm u” ấy đều thuộc về “ngài“. Tuy nhiên, khi rừng đêm buông xuống mới là khoảng thời gian sức mạnh ghê gớm của chúa sơn lâm được nhân lên gấp bội: “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc, Là khiến cho mọi vật đều im hơi.” Bởi vậy, “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” nghĩa là “ta” (con hổ) đợi tới lúc “mảnh mặt trời gay gắt” ban ngày “chết” (tắt) đi, “Để ta chiếm riêng phần bí mật“; hoàn toàn không phải “con hổ run sợ nép vào nơi bí mật đợi chết“. Cái tài tình của Thế Lữ ở chỗ ông không viết Ta đợi “tắt” mà là “đợi chết“. Gọi màn đêm buông xuống là mảnh mặt trời “chết” mới đúng là “ngôn từ” của chúa sơn lâm chứ? Nếu thuở “tung hoành hống hách” giữa “chốn ngàn năm cao cả âm u” mà con hổ vẫn “đầy nguy nan”, “bị con người truy sát”, “run sợ nép vào nơi bí mật đợi chết”, “đầy kinh hãi lo lắng” thì “Nhớ rừng” còn gì giá trị của khao khát tự do nữa? Lúc tự do mà như vậy khác gì với tù đày?
Thật tai hại nếu các em học sinh tin vào những phân tích, cảm nhận bài thơ “Nhớ rừng” của các Thạc sĩ văn học.
Ngoài sai sót về kiến thức, “Những bài tập làm văn mẫu” còn có kiểu hành văn dài lê thê, nôm na, lủng củng, tối nghĩa. Tình trạng này xuất hiện hầu như trong tất cả các bài làm với mức nhiều mức độ khác nhau. Chúng tôi xin đưa ra một số dẫn chứng:
-“Thân cây lúa khi cắt để thu hoạch, thường được người nông dân Việt Nam chia làm hai phần, phần gốc gọi là rạ, và phần ngọn gọi là rơm.” (Đề 18-Thuyết minh về cây lúa-tr.65)
Cách diễn đạt dài dòng, thiếu chính xác. Vì “khi cắt để thu hoạch” phần gốc có thể gọi là rạ, nhưng phần ngọn vẫn được gọi là bông chứ? Nó chỉ được gọi là “rơm” sau khi đã vò, tuốt đi phần hạt. Viết như “bài làm văn mẫu” hóa ra “khi cắt để thu hoạch” người trồng lúa chỉ thu được hai thứ, đó là “rạ” và “rơm” hay sao?
– “Hạt thóc có hình thoi, vỏ bên ngoài gọi là trấu, bên trong chứa tinh bột. Hạt thóc khi sát vỏ trấu đi, chỉ còn phần tinh bột bên trong gọi là hạt gạo, đây là loại lương thực chính của cư dân trồng lúa nước khắp thế giới. Hạt lúa cũng có nhiều loại. Loại hạt chắc để xát ra gạo cho người ăn dĩ nhiên gọi là thóc, nhưngphần hạt không căng sữa, chỉ dùng để nghiền làm thức ăn cho gia súc gọi là hạt lửng.(3) Còn những hạt không có chứa tinh bột bỏ đi hoàn toàn cũng được gọi là trấu.”
Một đoạn văn lộn xộn, ý tứ thiếu mạch lạc, sử dụng “nhưng“, “cũng” rất tùy tiện, vô lý. Theo chúng tôi, những chữ gạch chân nên bỏ.
– “Do đó những chậu quất thế thường có giá đắt hơn các chậu quất dáng thông có tầm cao tương đương khoảng 3-4 lần.”
Một câu văn khá ngô nghê, đã dùng “đắt hơn”, còn thêm “có tầm cao” vào. Sao không diễn đạt: “Do đó, những chậu quất thế thường có giá đắt hơn các chậu quất dáng thông có tầm cao tương đương khoảng 3-4 lần.” ?
– “Không biết tự bao giờ, trong lòng tôi đã cứ tin vào một điều vô lý…” (tr.8-tập I).
Vừa “đã” vừa “cứ” rất…vô lý!
– “Hiện nay, vấn đề ma túy đang là vấn đề nhức nhối không chỉ riêng đối với nước ta…” (Chủ đề về Ma túy-tr.74)
Sao không bỏ bớt “vấn đề” thứ nhất để câu văn gọn gàng, chặt chẽ hơn? Biên soạn bài “tập làm văn mẫu” cho các em học sinh đâu phải chuyện tào lao ở bàn trà?
– “Bởi vậy, người làm cây phải sử dụng thuốc để hãm cho quả chín đều đồng thời với việc dùng dây thép giữ cố định các cành sao cho cây quất im dáng, quả tỏa ra ngoài.”
“Cây quất im dáng” là thế nào? Sao ngôn từ nôm na, tối nghĩa đến vậy?
– “Bố chuyển đơn vị nọ về đơn vị kia rồi lại đi học miết mải.” (tr9-tập I)
Biến “mải miết” thành “miết mải” ngang phè!
– “Chẳng còn ai châu tuần quanh ông đồ mỗi độ xuân sang” (tr.90-tập II)
Không rõ “châu tuần” là gì?
– “Khi tôi học lớp hai, bố tôi vốn là một sĩ quan quân đội bị thuyên chuyểnvào Buôn Ma Thuột công tác. Thế là gia đình tôi phải chuyển vào theo.” (tr.15-tập I)
Phục vụ trong quân đội, chuyển công nơi công tác sao lại gọi là “bị”? Thầy cô dạy các em như vậy sao?
– “Tiếng chuông lảnh lót vang lên một cách khô khan-thứ âm thanh thực ra không được mấy đứa học trò như tôi lấy làm thích thú.”
Soạn giả dùng từ “mẫu” cho học sinh mà không hiểu đúng nghĩa của từ. Đã “lảnh lót” sao còn gọi là “một cách khô khan” được? “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên) giảng như sau: “lảnh lót [âm thanh] cao, trong và âm vang thường nghe vui tai >< chim hót lảnh lót; giọng nói lảnh lót.”
– “Đoạn thơ đã cho thấy tất cả không khí xôn xao của thời kỳ Hán học thịnh trị, những người viết chữ Nho được trân trọng và yêu kính.” (Phân tích bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên)
Ở thời kỳ “thịnh trị”, Hán học cũng chỉ có “không khí xôn xao” như cái chợ thôi chăng?
– “Vịnh Hạ Long-một danh lam nổi tiếng, niềm tự hào của đất nước Việt Nam ta.”
– “Vịnh Hạ Long-di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh của thế giới.”
– “Vịnh Hạ Long đã được thế giới công nhận là di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh, kỳ quan thiên nhiên của nhân loại.”
Vịnh Hạ Long không phải “danh lam” mà là thắng cảnh, được công nhận là “di sản thiên nhiên thế giới”. Còn “danh lam” hay “danh lam thắng cảnh” chỉ là cách gọi chung những ngôi chùa danh tiếng hoặc nơi có chùa chiền, di tích, phong cảnh đẹp mà thôi.
– “Người thợ làm giò pha thịt thành những miếng mỏng, cho vào cối đá, dùng chày gỗ thúc liên tục không nghỉ tay” (Bài về “Giò Chèm”-tr11-tập II)
Như vậy gọi là “giã giò” chứ, sao gọi là “thúc” được? “Từ điển tiếng Việt” (Ban biên soạn chuyên từ điển: New Era-NXB Từ điển bách khoa-2013) giải nghĩa “thúc” trong quy trình làm giò như sau: “Trộn nước mắm vào giò sống khi giã xong>”
– “Một cây giò thành công là khi thái ra, thớ giò phải nhỏ mịn, ăn giòn, có vị ngọt thịt đậm đà, mùi thơm hạt tiêu thoang thoảng không bị bã. Giò lụa thườngăn với bánh dày, xôi hoặc cơm trắng đều ngon. Khi ăn chấm với nước mắm ngon nêm hạt tiêu thì là đúng vị.”
Diễn đạt lộn xộn, tùy tiện:
+ Câu 1, lẽ ra cụm từ “không bị bã” phải đặt ngay sau dấu phẩy (,) của “ăn giòn”, thành: thớ giò phải mịn, ăn giòn, không bị bã hoặc ít ra phải có dấu phẩy sau “thoang thoảng”;
+ Phần “có vị ngọt thịt đậm đà, mùi hạt tiêu thơm thoang thoảng” phải diễn đạt thành: “có vị ngọt đậm đà của thịt, thơm mùi hạt tiêu thoang thoảng” mới đúng, mới hay.
+ Câu 2 đã dùng “thường” sao còn “đều”?
+ Câu 3… “thì là” văn nói.
– “Đó thực sự là một ý định ngông nghênh, ngang tàng và tuyệt vời lãng mạn của một tâm hồn thi sĩ…” (phân tích bài “Muốn làm thằng cuội” của Tản Đà-tr.127)
“Hồi ức có cả lúc thanh thản, sung sướng có cả lúc sợ hãi lo lắng, nhưng tất cả đều tuyệt vời oanh liệt.”
Cách dùng từ “tuyệt vời” của soạn giả thật lạ lùng!
– “Những câu đối được viết ra bằng nét chữ thảo bay bướm như rồng bay phượng múa đã thể hiện nét tài hoa của một lớp nghệ sĩ thuở xưa.” (Đề 60-Phân tích bài thơ Ông Đồ-tr.89-tập II)
Đã “như rồng bay phượng múa” cần gì phải dùng đến “bay bướm” nữa?; Mà lý do gì để gọi các ông Đồ là “một lớp nghệ sĩ”?
– “Diều là món đồ chơi dân gian có từ lâu đời ở nông thôn Việt Nam”
– “Cánh diều là món đồ chơi gắn liền với tuổi ấu thơ.”
– “Diều là món đồ chơi dân gian phổ biến nhất của trẻ em Việt Nam.” (Đề 42-Thuyết minh về Diều-tr.20-21-tập II)
Phải gọi diều là trò chơi hoặc thú chơi chứ, sao lại gọi là “món đồ chơi” ?
Có những câu văn dài đáng lẽ đã có thể “chấm câu” được, các soạn giả lại “phẩy”; có câu đáng lẽ “phẩy” các vị lại “chấm”. Ví dụ:
– “Ý nghĩ ấy của nhân vật tôi trong truyện ngắn “Lão Hạc” có thể nói là vô cùng hiếm hoi và quý báu trong thời đại lúc bấy giờ, nó xuất phát từ tình yêu thương và niềm tin vào bản tính tốt đẹp của con người mà không phải ai cũng có tấm lòng rộng rãi để nhận ra.”
– “Sinh ra ở nửa đầu thế kỷ XX, thời kỳ đất nước đang chìm đắm trong đêm dài nô lệ. Con đường cứu nước của các nhà chí sĩ đều mịt mờ tăm tối”. (Đề 35: Tâm sự yêu nước qua các bài thơ: Hai chữ nước nhà, Ông đồ, “Nhớ rừng”-tr.129)
Ngoài ra, các bài văn mẫu còn tình trạng viết sai chính tả, trích dẫn sai. Ví dụ “trâu ré” (trâu có vóc dáng nhỏ) lại viết thành “trâu gié“; Câu thơ “Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” (bài “Nhớ rừng“) lại viết thành “Rải nước đen…” ; Câu “Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi” lại viết thành “…giọng nguồn thét núi“,…Chữ “hét” không thể tùy tiện thay đổi được, vì ngay trong câu sau là: “Với khi thét khúc trường ca dữ dội“…
Sách đã tái bản lần 2 mà những sai sót như trên vẫn được đem ra làm “mẫu” cho các em học tập quả là kỳ lạ!
Vì bài đã dài nên chúng tôi xin dừng tại đây. Nhận xét cuối cùng của chúng tôi: nhiều bài tập làm văn trong sách “Những bài tập làm văn mẫu lớp 8” của nhóm 4 Thạc sĩ văn học vẫn xứng đáng là “mẫu“, nhưng là “mẫu” theo cách hiểu ngược lại.
HTC/6/2015
Tài liệu tham khảo:
– Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm-Tập I-Hội chăn nuôi Việt Nam-NXB Nông nghiệp-2009.
– Hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi-TS Phùng Quốc Quảng-NXB Nông nghiệp-2009.
– Cây lúa Việt Nam-GS.TS Nguyễn Văn Luật-NXB Nông nghiêp-2008.
– Từ điển bách khoa nông nghiệp-Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam-NXB Từ điển Bách Khoa-1991.
– Từ điển thành ngữ-tục ngữ dân tộc Tày-Triều Ân-Hoàng Quyết-NXB Văn hóa dân tộc-1996.
Tin cùng chuyên mục:
Trộm Tăng tướng
Cảnh báo: Đề phòng chiêu thức lừa đảo xuất khẩu lao động
Nhầm: 600 công đất hay là…
Bàn về 13 pháp hạnh đầu đà