CÂU CHUYỆN CỦA TỐNG VĂN CÔNG VỚI NGUYÊN NGỌC VỀ TỰ DO BÁO CHÍ

Người xem: 176

ĐÔNG LA

Trên Viet-Studies 15-6-2012, Tống Văn Công có bài Từ một bài báo nhỏ. Qua câu chuyện với nhà văn Nguyên Ngọc, ông muốn bàn về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam. Vốn là TBT báo Lao Động, Tống Văn Công kể một lần cấp dưới của ông báo cáo có một sĩ quan của A.25 tới tòa báo yêu cầu cho xem bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc gửi đăng báo. Tuy đã đồng ý nhưng Tống Văn Công vẫn băn khoăn: “Vì sao bên công an lại có cách hành xử thiếu tôn trọng đối với tổng biên tập một tờ báo đến như vậy? Chẳng lẽ, các anh ấy cho rằng tôi không biết đánh giá một bài báo tốt hoặc có hại? Chẳng lẽ một người như nhà văn Nguyên Ngọc, đã bao lần vào sinh ra tử suốt hai cuộc kháng chiến vẫn có thể bị nghi ngờ cố ý gây mất an ninh chính trị?”. Rồi ở phần cuối bài ông kể tiếp: “Cuối năm đó, có cuộc Hội nghị tổng kết công tác báo chí toàn quốc, do ông Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách khối Tuyên-Văn-Giáo của Đảng chủ trì”, Tống Văn Công đã phát biểu:“Việc cán bộ A.25 yêu cầu đọc bài báo của nhà văn Nguyên Ngọc trước Tổng biên tập là không hợp lý và có hại”. Khi biết có một vị tướng có trọng trách phản ứng, ông đã viết thư phân bua: “Thưa anh, tuy không tán thành cách làm như vậy, nhưng tôi chưa bao giờ đưa chuyện đó ra với bên ngoài”. Thật thú vị, đó là vào thời điểm Tống ta còn đương chức TBT, còn bây giờ hưu lâu rồi thì chắc không còn sợ gì nữa nên sau bao nhiêu năm, Tống Văn Công không chỉ đưa chuyện đó “ra ngoài” mà còn tung hẳn lên mạng cho toàn thế giới coi chơi. Phải chăng ông muốn cho cả thế giới biết VN không có quyền tự do báo chí, và nó chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy ông đi đến hành động “lật pháp” hôm nay?

Là một TBT một tờ báo lớn lẽ ra ông phải làm cho nội dung báo của mình không chỉ A.25 không giám sát mà họ còn học được nhiều điều bổ ích do nghiệp vụ báo chí của ông mang lại. Tiếc là vì trình độ, không chỉ Tống Văn Công mà còn rất nhiều người trong làng báo, từ TBT đến phóng viên, vẫn buộc nước ta phải sinh ra A.25 để làm những điều cần thiết, đảm bảo an ninh trong mặt trận tối quan trọng là tư tưởng – văn hóa. Những ngày hôm nay, khi người ta được tự do viết tung lên mạng, thông tin sẽ lan truyền khắp thế giới, xem chừng công việc an ninh tư tưởng – văn hóa còn càng cần thiết hơn.

Câu chuyện của Tống Văn Công kể trên xuất phát từ việc: “Lúc ấy đang ồn ào vụ anh Nguyên Ngọc bị buộc “thôi giữ chức Tổng biên tập báo Văn nghệ để nhận công tác khác” bởi một quyết định của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Dư luận gọi đó là “một quyết định cách chức trá hình”. Như vậy nếu Tống Văn Công hiểu lẽ đời thì sẽ thấy chuyện người ta giám sát bài của một người “có vấn đề” cũng là chuyện bình thường. Tiếc là chính ông cũng không đủ trình độ và phẩm chất để hiểu cho được bản chất của “vụ Nguyên Ngọc” và chính bản thân Nguyên Ngọc.

Theo Xuân Sách (Xuân Sách và tập thơ chân dung nhà văn – Đỗ Ngọc Thạch): “Nguyên Ngọc người nhỏ nhưng gan lớn… không nhân nhượng và lẽ tất nhiên phải xảy ra: Anh không “đổi” thì tôi phải “thay” như lời miệng nói của ông Tố Hữu: “Cậu Ngọc chỉ làm được bí thư chi bộ, làm bí thư Đảng đoàn thì quá sức. Việc đặt Nguyên Ngọc ngồi chỗ đó coi như tôi làm bài thơ dở, phải làm lại”.

Tống Văn Công cho biết: “Báo Tuổi Trẻ đăng thư ngỏ của 12 nhà văn thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ tổng biên tập đổi mới Nguyên Ngọc. Phụ bản tạp chí Cánh Én ở miền Trung ra chuyên đề ca ngợi Nguyên Ngọc đổi mới báo Văn Nghệ và lo ngại cho số phận tờ báo sẽ xuống dốc khi bản thân Tổng biên tập bị trù giập. Nhà thơ Thanh Thảo ở Quảng Ngãi, nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt gửi thư ngỏ phản đối việc cách chức trá hình đối với Tổng biên tập Nguyên Ngọc. Sau đó ít lâu, nhà thơ Bùi Minh Quốc đến tòa soạn báo Lao Động cho tôi biết, anh đã bị Tỉnh ủy Lâm Đồng quyết định khai trừ Đảng và cách chức Chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng, do viết thư ngỏ và ký kiến nghị phản đối cách xử lý đối với nhà văn Nguyên Ngọc. Tôi thay mặt báo Lao Động gửi văn thư kèm theo đơn thư của nhà thơ Bùi Minh Quốc về kỷ luật khai trừ Đảng đối với anh, gửi lên Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương”.

Cái gọi là dư luận trên diễn đàn văn học – nghệ thuật nước ta nhiều trường hợp thường dựa theo cảm tính, thậm chí người ta còn bảo vệ nhau theo kiểu băng nhóm, cánh hẩu mà không khách quan nhìn vào bản chất đích thực của vụ việc. Hồi ấy tôi mới chập chững vào làng văn nên chỉ biết sơ sơ. Bây giờ mới có điều kiện để hiểu biết chính xác hơn.

Năm 1979, với cương vị một Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn VN, Nguyên Ngọc từng đưa ra bản Đề dẫn có những ý rất hay:

Hôm nay, trong hội nghị này, chúng ta… với tư cách là những người cầm bút của Đảng, tức là những người vừa là những người chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn học, vừa là bộ phận tham mưu của Đảng trên mặt trận này.

Trong cuộc gặp nổi tiếng với TBT Nguyễn Văn Linh để “cởi trói” văn nghệ, Nguyên Ngọc nói: “nghệ thuật giữ cho con người không sa xuống thành con vật” và “Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo”.

Tiếc là khi triển khai vào thực tế thì giữa “lời nói” và “việc làm” của Nguyên Ngọc lại ngược nhau. Như tôi đã viết một lần, ông đã ủng hộ hoặc trực tiếp là bà đỡ sinh ra một đội ngũ “chiến sĩ” là những người đã tấn công vào thành trì mà nhân tính của con người đã dựng lên; từ những chuẩn mực của đạo lý, luân lý, pháp lý đến thẩm mỹ. Trên tờ Văn nghệ, khi là TBT, Nguyên Ngọc đã cho in truyện ngắn Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện đã miêu tả Vua Quang Trung như một tay du côn và cho Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả. Nguyễn Huy Thiệp (trong bản gốc truyện) cũng đã dùng tài văn “nhét c. vào mồm thằng Khải tài như cái đấu” mà dám chê “tiệc của vua nhạt” và “xẻo d. thằng Thi” xem có còn “dê được không?”. Chính truyện này là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến không chỉ Nguyên Ngọc mà cả “sếp” của ông là Tướng Trần Độ bị mất chức.

Không chỉ có thế, Nguyên Ngọc còn cho đăng văn Nguyễn Huy Thiệp có một loạt chi tiết, hình ảnh, ý tứ ngược lại chính lời của ông nói về “tính nhân đạo”. Về chân dung người nông dân: “Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”; tả mặt một người “đen và tái như da ở bìu dái”, “lông chân như lông lợn”; về chính trị: “Chính trị rặt trò mờ ám bỉ ổi”; về văn chương: “Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất”; trong truyện Không có vua, hành động loạn luân, bố chồng bắc ghế nhìn trộm cô con dâu tắm đã được biện minh: “Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con buồi”; ở chỗ khác: “Đoài bảo: “Nhà kia có cô con dâu, bố chồng bóp vú cô ta . Đứa con trai hỏi: “Sao ông bóp vú vợ tôi?”. Ông bố bảo: “Để trừ nợ. Thế hồi xưa sao mày bóp vú vợ tao?”. Ghê sợ hơn nữa, trong truyện Tướng về hưu, nhân vật chính cho chuyện vợ là bác sĩ sản khoa thường lấy xác thai nhi nấu cho chó ăn là “chả quan trọng gì”…

Có những điều mà những người bình thường khi nói tới ai cũng phải xấu hổ, nhưng trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, tất cả đều được nói ra một cách tự nhiên. Chuyện bà cụ nói với bạn của đứa cháu: “Còn tôi, cả đời chỉ biết mỗi một con b…, mang tiếng thủy chung đức hạnh,… chẳng biết báu cho ai, chỉ biết về già sống lâu khổ con khổ cháu”; chuyện người chị dâu nói với bạn em chồng: “Có mấy tay thanh niên ở bên Duệ Dông đứng sau chúng tôi. Một tay dí chim vào đít cái Lược”; đạo diễn nói với diễn viên: “Cậu có dáng dấp một thằng trai điếm. Phụ nữ mê cậu. Trong phim có cảnh Chiêu Hổ bóp vú các cô thôn nữ, cậu vào vai ấy tuyệt vời”. Chuyện ngoại tình luôn là chuyện động trời còn trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, chồng nói với vợ cứ như không: “Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với nhiều người, ông giáo Quỳ cũng mặc, chỉ bảo: Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền, không có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế vào chứ đừng ngủ không”…

Bằng những cái nhìn thản nhiên đó, chính Nguyễn Huy Thiệp đã biến Nguyên Ngọc thành một “thằng cha ba xạo” khi nói với TBT Nguyễn Văn Linh là “nghệ thuật là phải giữ cho con người không sa xuống thành con vật”!

Dù vậy, trong bài Van-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau?, Nguyên Ngọc viết:
Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng nhất ở Nguyễn Huy Thiệp… anh không lao mình vào dòng thác văn học phơi bày và tố cáo… Anh không làm cái mà ở Trung Quốc người ta gọi là “văn học vết thương”. Anh làm một việc khác: anh cố tìm ra “nguyên nhân sơ khởi” của tình trạng xã hội và con người Việt Nam đó, và để làm việc ấy, cố lần ngược lên đến ngọn nguồn của nó.

Và như vậy, anh đã khởi xướng ra trong văn học Việt Nam hiện đại cái mà tôi muốn gọi là xu hướng tự vấn của xã hội và con người Việt Nam. Một luồng sinh khí mới, lành mạnh và sâu sắc được thổi vào văn học và đương nhiên, từ văn học vào xã hội… anh đã làm rất đúng cái mà văn học – nền văn học của dân tộc nào cũng vậy – đúng ra cần phải làm: sự tự soi mình của dân tộc, và của con người…

Ở đây đúng là Nguyên Ngọc lại “làm văn” về Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã sai khi viết Nguyễn Huy Thiệp “cố tìm ra “nguyên nhân sơ khởi” của tình trạng xã hội và con người Việt Nam”; “khởi xướng ra trong văn học Việt Nam hiện đại cái mà tôi muốn gọi là xu hướng tự vấn”, “sự tự soi mình của dân tộc, và của con người”. Vì văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ đơn giản là văn chương “phơi bày”; một sự phơi bày không “tố cáo”, không “nguyên nhân sơ khởi”; không “tự vấn”, không “tự soi”; đó chính là cái “độ không” (le degré zéro) mà Roland Barthes đã phê phán về cái thứ văn chương trung tính trong Le degré zéro de l’écriture suivi de nouveaux essais critiques mà Nguyên Ngọc đã dịch là Độ không của lối viết, trong đó “de l’écriture” dịch là “lối viết” xem chừng không ổn.

Trong văn chương thế giới thực tế còn có nhiều chuyện còn ghê gớm hơn. Csáth Géza với truyện Kẻ giết mẹ kể chuyện hai đứa trẻ vì không được người mẹ quan tâm đã phản kháng một cách vô thức bằng cách bắt giết những con thú hoang, rồi chúng quen tay, khi đến tuổi dậy thì cần tiền thỏa mãn tính dục, chúng đã dễ dàng giết chính mẹ mình. Dư Hoa trong truyện Sống kể câu chuyện trong một bệnh viện người ta đã lấy sạch máu một đứa học trò 13 tuổi, con một cựu binh, làm nó chết, để tiếp máu cho bà vợ của ông chủ tịch huyện vốn là lính của cha đứa bé.

Giống như một bệnh nhân cần bác sĩ, cái cơ thể xã hội cũng cần đến những bác sĩ, đó chính là những nhà tư tưởng và những nhà văn mà tác phẩm của họ có tầm tư tưởng. Họ viết về phần tăm tối của con người để rung hồi chuông cảnh tỉnh, viết về cái ác với tấm lòng lương thiện chính là hướng người đọc về phía thiện. Nhưng văn của Nguyễn Huy Thiệp không như vậy. Qua những dẫn chứng trên, Nguyễn Huy Thiệp thường xóa nhòa ranh giới giữa đúng sai, thiện ác bằng cái nhìn vô cảm của mình và bằng những hành động, lời nói mất nhân tính của các nhân vật.

Dù được Nguyên Ngọc và rất nhiều người tán dương, Nguyễn Huy Thiệp cũng bị nhiều người phủ nhận. Nhà văn Hồ Phương cho Nguyễn Huy Thiệp có “cái nhìn xã hội thiên về đen tối” (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr.452). Đỗ Văn Khang:“Đặc biệt cái tâm mà không sáng thì không thể làm văn được”(tr.242). Mai Ngữ cho Nguyễn Huy Thiệp: “đã lăng nhục cha ông, tổ tiên mình” (tr.426). Tạ Ngọc Liễn: “càng kỳ quặc hơn khi cho rằng văn hóa Việt Nam (mà biểu tượng là Nguyễn Du) chỉ là đứa con hoang của nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp đẻ ra. Tôi không nghĩ tác giả luận điểm này là người mắc bệnh tâm thần nhưng đó không phải là sự suy tưởng của một đầu óc lành mạnh” (tr.173). GS Trần Thanh Đạm cho Thiệp có “những ngôn luận xằng bậy đối với các văn hữu trong Hội Nhà văn thông qua các bài như: Hoa thủy tiên, Mổ nhà văn”; Bế Kiến Quốc: “Chỉ tiếc Thiệp không đi hướng thiện này, anh ta đi hướng ác, ác quá, cùn quá, lặp lại mình quá sẽ mất Thiệp”; Vọng Thanh: “cái ác của Nguyễn Huy Thiệp là từ tâm ác ra chứ không phải tưởng tượng ở trên giấy trắng mực đen đâu” (Văn nghệ TP.HCM).
Tôi đã tự hỏi cái gì đã làm nên giọng điệu của văn Nguyễn Huy Thiệp, cái chất thực dụng, lọc lõi, khinh bạc đến ghê người đó. Các cụ đã nói “văn là người”, triết học cũng chỉ rõ “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”. Quả thật, khi đọc bài của Lê Xuân: Về cái tài của Nguyễn Huy Thiệp trên Văn nghệ TP.HCM thì mọi chuyện đã rõ như ban ngày:

Trong giới giáo chức Tây Bắc những năm 1970… cả nước nói chung đói kém, vất vả lắm vì chiến tranh… nhưng Thiệp đã “ma lanh”, “láu lỉnh”, “khôn ngoan” nhiều thứ nên “sống khỏe” hơn bạn bè. Thiệp… mua vải vóc, mắm muối, xà phòng, gạo thịt… rồi đem ra ngoài bán lại kiếm lời… Thiệp về Nhà xuất bản Giáo dục ở Hà Nội… “bạo gan” lắm, có lần dám bán đi hàng xe trâu sách mới in cho dân làm pháo lấy tiền tiêu xài. “Đúng là đốt sách làm ngu học trò”… Sự việc vỡ lở thế là Thiệp lại ba lô xin về Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, thuộc Cục Bản đồ cho đến khi về hưu.

Vậy mà tại sao Nguyên Ngọc lại lăng-xê Nguyễn Huy Thiệp và quyết bảo vệ đến cùng? Phải chăng ông tự cho mình có cái đầu siêu đẳng nên mới thấy được những cái cao thâm của văn Nguyễn Huy Thiệp? Theo quán tính dư luận thì ông cũng có cơ sở để tin lắm. Vì với nhiều người Nguyên Ngọc vẫn là người có công đầu trong “đổi mới” văn chương, vẫn là một người có trí cao tâm sáng. Nhưng nếu ai đủ thông thái sẽ thấy hình như không phải thế!

Khi là người bên lề, Nguyên Ngọc đã cố công truyền bá lý luận văn học phương Tây. Nhưng do ông không hiểu bản chất vấn đề nên đã vừa dịch sai vừa truyền bá những quan điểm trái ngược nhau.

Cuốn “Le degré zéro de l’écriture suivi de nouveaux essais critiques” của Barthes Nguyên Ngọc đã dịch là “Độ không của lối viết”. Barthes quan niệm văn chương có 3 chiều. Ngôn ngữ và lối viết tạo nên một mặt phẳng, còn chiều thứ bal’écriture chính là sự cao sâu của tác phẩm, thể hiện trách nhiệm cũng như sự dấn thân của nhà văn với xã hội. Như vậy Nguyên Ngọc dịch l’écriture là lối viết vừa lẫn lộn, vừa sai ý của Barthes.

Không chỉ dịch sai, Nguyên Ngọc lại truyền bá tiếp quan điểm sáng tác của Kundera ngược với quan điểm của Barthes khi dịch cuốn “Nghệ thuật tiểu thuyết”. Bởi triết lý sáng tác của Kundera là Hiện tượng học. Trên tờ tạp chí ở New York, The Paris Review, Kundera đã trả lời phỏng vấn của Christian Salman:

Thi sĩ là anh chàng trẻ tuổi được mẹ dắt tay đến trưng bày trước cái thế giới mà anh ta không thể bước vào được. Anh thấy đấy, định nghĩa ấy không phải là xã hội học, không phải là mỹ học, cũng chẳng phải tâm lý học.

Christian Salman: Nó là hiện tượng học.

M. Kundera: Tính từ này không tồi, nhưng tôi tự cấm mình dùng”.

Theo Kundera: “Nắm bắt cái tôi, trong các tiểu thuyết của tôi, điều đó có nghĩa là nắm bắt lấy bản chất cục diện hiện sinh của nó”.

Tóm lại, Hiện tượng học, cái nền tảng để Chủ nghĩa Hiện sinh ra đời, đề cao nhận thức chủ quan của cá nhân, đặt “thế giới trong ngoặc”. Nghĩa là không có chuyện “dấn thân” cái gì hết, tức quan điểm của Kundera là ngược với của Barthes!

Chính vì không hiểu bản chất vấn đề, Nguyên Ngọc đã chạy theo cái vỏ của những khái niệm lấp lánh, nên mới làm một việc mâu thuẫn như vậy.

Còn về tính nết của Nguyên Ngọc, Văn Chinh từng viết trên blog của mình: “Trước hết, do cá tính nghệ sĩ của ông. Nhà văn HP (Hồ Phương) kể: “Cái tính thằng này (ý nói NN, họ là bạn bè) nó thế. Họp chi bộ kiểm điểm một đảng viên bóp vú một cô, khiến cô ấy tức tối, mỗi người thường chỉ nói một câu góp ý tác phong chung chung. Riêng nó nói gần hết buổi họp và sau khi chỉ trích cái sai một cách gay gắt, nó thường nâng quan điểm lên thành anh đã coi phụ nữ như một thứ đồ chơi, chỉ có bọn tư sản mới thế!”; rồi: “Với cá tính triệt để và cực đoan… Cái người nhân danh dân chủ này lại mất dân chủ một cách trắng trợn đến thế, là một bi kịch của trí thức nước nhà chứ không riêng gì một mình Nguyên Ngọc, tôi nghĩ thế. Mặt khác, cái lý cố gì mà Tổng biên tập tờ báo của Hội lại không đăng, nhất định không đăng nghị quyết của BCH Hội nhận định và chấn chỉnh báo Văn nghệ của Hội… Vâng, như tôi biết, đó là hai trong các nguyên cớ trực tiếp người ta đã thay Tổng Biên tập Nguyên Ngọc”.

Như vậy, sự băn khoăn của Tống Văn Công: “Chẳng lẽ, các anh ấy cho rằng tôi không biết đánh giá một bài báo tốt hoặc có hại? Chẳng lẽ một người như nhà văn Nguyên Ngọc, đã bao lần vào sinh ra tử suốt hai cuộc kháng chiến vẫn có thể bị nghi ngờ cố ý gây mất an ninh chính trị” là hoàn toàn có cơ sở. Tống Văn Công đúng là cũng có thể không biết đánh giá một bài báo và cũng không đủ tầm để hiểu về một nhà văn như Nguyên Ngọc. Vì thế A.25 người ta có hành động như ông kể thì cũng hoàn toàn có lý và cần thiết.

Tiếc là dù các cơ quan chức năng có “làm hết công suất”, cả những nhà phê bình chân chính có viết mòn bút cũng không thể ngăn được những hậu quả khi những sự tung hô sai trái của văn chương nghệ thuật đã được truyền thông hóa. Bởi sự sai trái thường được lực lượng đối nghịch khai thác tối đa để chống phá đất nước, chống phá sự ổn định và cuộc sống bình yên của nhân dân.

Trong bài viết, Tống Văn Công có đặt một câu hỏi cho một vị có trọng trách về an ninh văn hóa: “Khoảng cách giữa ông và tôi chỉ là một câu hỏi: “Cỗ xe báo chí trên con đường tự do, cần bao nhiêu tay lái?… Anh Nguyên Ngọc cũng vấp bước trên con đường tự do ấy”. Câu hỏi này chắc sẽ làm cho các quốc gia có nền báo chí tự do vô cùng kinh ngạc!”.

Tôi xin trả lời giúp câu hỏi này, nếu các vị trong làng báo đều có trí cao tâm sáng thì chẳng phải cần có một tay lái nào cả!

Nguồn: Đông La/TTVNOL
TP.HCM, 6-11-2013

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *