Lúc đầu tôi tính đặt tựa bài này là “Vài lời bàn thêm về một luận điểm kỳ quặc, ngu dốt đến khó tin của Đỗ Hùng, PTTK báo Thanh Niên” nhưng nghĩ lại thấy người này không xứng đáng để được đặt tên lên tựa bài, nên thôi.
Tôi chỉ chú ý đến người này từ bài viết “Quyết liệt vì Hoàng Sa” năm ngoái, thực chất chỉ là một sản phẩm “2 lần xào lại” từ các “tài liệu” mà Trần Đỗ Cẩm và Vũ Hữu San, 2 người thuộc phe AQ trong những người cựu quân nhân Sài Gòn, xào lại từ các tài liệu chiến tranh chính trị (tâm lý chiến) của ngụy quyền Sài Gòn.
Sau đó đi đâu cũng thấy bà con chửi Đỗ Hùng nhiều quá, mà chửi rất đúng. Và tôi cũng không ưa con người này, nhưng chưa biết nhiều về anh ta, chỉ biết anh ta qua những vụ đó thôi.
Sau vụ “tổng phục dựng” thây ma vừa qua, có một số thành viên Facebook đi theo dõi tìm hiểu về nhân vật Đỗ Hùng này, đã tìm lại nhiều entry cũ của Đỗ Hùng và “share” một số nội dung phản động của Đỗ Hùng lại cho mọi người, trong đó có những dòng nói bóng gió xa gần không hay về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh ta chửi cả nhà sử học Lê Văn Lan, các trí thức chân chính và người dân, chụp mũ rằng họ đang “lên đồng”, và muốn “phong thánh”, “thần thánh hóa” Đại tướng.
Nhưng sau khi đọc bài này của blogger Nguyễn Thanh Tùng trên Lều Báo thì mới thấy thêm những ý kiến mà đáng lý một người phó TTK cho một tờ báo như Đỗ Hùng thì không nên ngu dốt tới mức độ đáng kinh ngạc như thế. Trong đó có ý kiến rằng Nhà nước Việt Nam phải phi nghĩa hóa cuộc chiến tranh trước năm 1975 để công nhận tính “hợp pháp” của cái gọi là “VNCH” thì mới vô hiệu hóa được công hàm Phạm Văn Đồng và công nhận “quyền sở hữu hợp pháp” của “VNCH” ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước hết phải nói đây là một ý kiến ngớ ngẩn, vô duyên, ngu xuẩn và dốt nát hiếm thấy ở một người phó TTK của một tờ báo. Nó như là một báo động đỏ về những gì đang xảy ra trong nội bộ báo Thanh Niên và những khuất tất, tiêu cực trong quá trình “thăng tiến”, luồn cúi, chạy chọt, leo trèo lên chức vụ, vị trí đó trong tờ báo này. Giỏi khôn vặt và nịnh bợ, kém nghiệp vụ và tri thức, thậm chí cả đạo đức nghề báo.
Nếu như đây là một ý kiến của một cậu bé mới lớn hay là một người nhà quê lên tỉnh nào đó, thì chúng ta có thể hiểu và thông cảm được. Nhưng nó lại phát ra từ miệng của một người đường đường là phó TTK của một tờ báo lớn thì phải nói đây thật sự là một báo động về trình độ nhân sự, công tác cán bộ của báo Thanh Niên, về trình độ, kiến thức chính trị, luật pháp, lịch sử nói chung của tờ báo này.
Thứ nhất: Làm sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ VN hiện tại có thể công nhận hay không công nhận, thừa nhận hay không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền Sài Gòn? Muốn biết nó hợp pháp hay không thì phải căn cứ vào luật pháp Việt Nam trong giai đoạn chính quyền Sài Gòn tồn tại (1949-1955-1975). Tức là căn cứ vào luật pháp Việt Nam từ năm 1946 khi nước Việt Nam có Quốc hội và Hiến pháp đầu tiên, trong lúc trên lãnh thổ Việt Nam không tồn tại một quốc gia, nhà nước, quốc hội, hiến pháp, luật pháp nào khác!
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946 đã khẳng định chủ quyền một cách xuyên suốt toàn bộ nước Việt Nam theo các hiến pháp Việt Nam đến nay, bắt đầu từ hiến pháp 1946 được thông qua bởi Quốc hội Việt Nam khóa I. Năm 1959, cái gọi là “VNCH” gián tiếp bị đưa vào diện phản bội Tổ quốc vào trong Hiến pháp qua chương I điều VII:”Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.” Các hiến pháp sau năm 1975 cũng nói về hai cuộc kháng chiến với ý nghĩa là những cuộc kháng chiến chống xâm lược!
Do đó, nếu bảo “VNCH” là hợp pháp thì phải cạo sửa lịch sử, cạo sửa lại các hiến pháp đó và nói về hai cuộc kháng chiến với ý nghĩa là những cuộc chiến tranh xâm lược! Đồng thời phải làm một cuộc đốt sách chôn nho hoặc cách mạng văn hóa, đốt hủy sạch sẽ những văn kiện chính trị, văn kiện pháp lý của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam trong thời gian đó, chẳng những ở Việt Nam, mà còn cả thế giới. Bởi vì không chỉ có luật pháp, hiến pháp trong nước, mà các văn kiện chính trị, văn kiện ngoại giao, các bức thơ ngoại giao của chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều thể hiện rằng các chính quyền Bảo Đại, Diệm, Thiệu là các ngụy quyền bù nhìn tay sai của giặc xâm lược Pháp – Mỹ, và sau này Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính duy nhất của miền Nam Việt Nam.
Trên thực tế, trong thời gian tồn tại của ngụy quyền 1949-1975, không có luật nào của Việt Nam công nhận họ. Luật pháp Việt Nam, hiệp định Genève 1954, hiệp định Paris 1973 đều không có cái nào công nhận họ.
Xin lưu ý hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 không hề công nhận “Quốc gia Việt Nam” và “Việt Nam Cộng hòa” là các quốc gia, nhà nước. Thậm chí hiệp định Genève còn không công nhận “Quốc gia Việt Nam” là một thành phần chính trị, mà chỉ quy định nước Việt Nam tạm thời bị chia làm hai vùng tập trung quân sự và hai vùng kiểm soát, quản lý trong thời hạn 2 năm! Quân đội Pháp-ngụy tập trung về phía nam vĩ tuyến 17. Quân đội Việt Nam tập trung về phía bắc vĩ tuyến 17.
Còn hiệp định Paris chỉ nhượng bộ và công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là một thành phần chính trị trong cuộc tổng tuyển cử thành lập chính phủ ba thành phần dự kiến sẽ diễn ra theo điều khoản trong hiệp định này.
Nhưng Mỹ sau khi an toàn rút thực binh chiến đấu về nước, họ liền trở mặt, bội ước và phá hoại hiệp định Paris. Mỹ-ngụy đã không tuân thủ và thực thi đầy đủ các điều khoản khác trong hiệp định này, trong đó có điều quy định tổ chức tổng tuyển cử thành lập chính phủ ba thành phần. Do đó, hiệp định này không còn giá trị, không còn hiệu lực.
Như vậy, “VNCH” có hợp pháp hay không là phải căn cứ trên luật pháp Việt Nam trong thời gian “VNCH” tồn tại, chứ làm sao Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam ngày nay có thể làm gì được? Nếu Nhà nước, Quốc hội VN ngày nay có thể công nhận với không công nhận tính hợp pháp của “VNCH” thì hóa ra luật pháp VN là luật rừng à? Hóa ra Đảng đứng trên luật pháp?
Thứ hai: Chẳng những ý kiến “công nhận tính hợp pháp” nói trên là một ý kiến mất trí, điên rồ, hoang tưởng, phi thực tế, bất khả thi, thuộc diện thần kinh chính trị, mà nó còn có thể gây hại đến chủ quyền của nước CHXHCN Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một là vì trong thời gian “VNCH” chiếm đóng, kiểm soát, quản lý hai quần đảo này, Trung Quốc, Đài Loan và Philippines đã “gặm nhấm” một phần rất lớn, và nhiều lần “VNCH” không hề lên tiếng phản đối trong khi những nơi đó đang trong vùng kiểm soát của họ.
Hai là vì bản thân “VNCH” ngày nay đã không còn tồn tại. Nếu bảo “VNCH” là người “sở hữu” Hoàng Sa, thì ngày nay Trung Quốc phải trả Hoàng Sa lại cho ai?
Nếu nói theo kiểu của Đỗ Hùng thì “VNCH” là một quốc gia, nhà nước “hợp pháp”, thì có nghĩa là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kẻ xâm lược “VNCH”, là một quốc gia bên ngoài xâm lược thâu tóm quốc gia khác bằng vũ lực, và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là kẻ phiến loạn, và Quân đội Nhân dân Việt Nam là một đội quân xâm lược, quân Giải phóng là phiến quân. Vậy thì việc gì Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam? Như vậy, luận điệu của Đỗ Hùng sẽ gây khó khăn cho chủ quyền của CHXHCN Việt Nam, bởi vì CHXHCN Việt Nam là thừa kế của VNDCCH và CHMNVN!
Nếu cố gắng lừa dối bản thân rằng “VNCH” là một quốc gia, thì làm cách nào chuyển giao “chủ quyền” (danh nghĩa) của chính quyền Sài Gòn về tay CHXHCN Việt Nam, làm cho nó trở thành chủ quyền của CHXHCNVN? Rất khó! Bởi vì kiểu nào cũng nói không xuôi: Nếu lập luận rằng chính quyền Sài Gòn đã bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, vì vậy Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam, thì cũng không ổn. Bởi lẽ:
– Thực tế không hề có một cuộc bàn giao chính quyền hay bàn giao quyền lực nào cả. Như đại úy Phạm Xuân Thệ đã tuyên bố tại dinh tổng thống ngụy quyền: “Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao”.
– Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không kết thúc bằng một cuộc đầu hàng thật sự và sau đó bàn giao chính quyền, mà kết thúc bằng một chiến dịch quân sự và giành lại chính quyền, theo cách nói khi đó là “cướp chính quyền”, dĩ nhiên cướp ở đây là cướp lại chính quyền từ tay Mỹ.
Ngụy quyền chỉ đầu hàng trong sự thoi thóp sau khi ngụy quân đã tháo chạy và sắp tan rã, và họ không còn năng lực chống trả. Sự làm chủ hoàn toàn miền Nam của VNDCCH và CHMNVN là thành quả của một chiến dịch quân sự, một biện pháp vũ lực, sử dụng quân đội và các lực lượng vũ trang và giành chiến thắng, chứ không phải là từ một sự đầu hàng tự nguyện và sát nhập hòa bình. Khi đó ở Sài Gòn có rất nhiều phóng viên chiến trường quốc tế và ai cũng thấy được chuyện gì đã diễn ra.
– Đặt giả thuyết có thể miễn cưỡng coi như là “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng thì có thể tạm coi là “bàn giao chính quyền”, thì nó vẫn chỉ có giá trị ở những vùng mà ngụy quân phụ trách kiểm soát và ngụy quyền phụ trách quản lý thay cho Mỹ. Hoàng Sa lúc đó ở ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Dương Văn Minh, mà lúc đó đang do Trung Quốc chiếm đóng, kiểm soát, quản lý.
Bà Monique Chemillier-Gendreau, nữ giáo sư thạc sĩ ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học Paris VII – Denis Diderot của Pháp, trong một tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và pháp lý quốc tế, đã ghi nhận: “Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không có quyền lực.” Năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn không kiểm soát, quản lý Hoàng Sa. Do đó họ không thể chuyển nhượng hay bàn giao chủ quyền đối với Hoàng Sa lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
oOo
Nếu giải quyết theo cách thừa nhận rằng Hoàng Sa là chủ quyền lãnh thổ thuộc sở hữu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đang bị Mỹ-ngụy xâm lược chiếm đóng, thì dù vẫn khó khăn, nhưng ít ra còn có đối tượng rõ ràng cho Trung Quốc trả lại Hoàng Sa: CHXHCN Việt Nam, thừa kế của VNDCCH và CHMNVN.
Tuy nhiên, giả sử nếu có tranh tụng tại tòa án quốc tế, thì đương nhiên tòa sẽ áp dụng luật quốc tế, chứ làm sao có thể dùng luật pháp của một phía Việt Nam? Luật pháp quốc tế sẽ xem cả 3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và “VNCH” với tư cách là 3 quốc gia với các chính phủ, quân đội, quốc kỳ, quốc ca, đồng bạc, và vùng kiểm soát, quản lý khác nhau, và đều có sự công nhận và quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. “VNCH” nhờ được Mỹ dùng sức mạnh ngoại giao và quyền lực mềm của họ an bài, nên cũng được nhiều nước trên thế giới “quan hệ ngoại giao” xuất phát từ sự áp đặt của Mỹ.
Vấn đề này lại đưa đến cái dốt khác của Đỗ Hùng. Nếu có tranh tụng, thì sẽ áp dụng luật pháp quốc tế, trong khi đó một số chính phủ quốc tế đã công nhận và gọi “VNCH” là một “quốc gia” rồi, thì tại sao Nhà nước VN cần phải công nhận nữa?
Phải nói là Đỗ Hùng là một PTTK ngu và dốt từ A tới Z hiếm thấy. Một kẻ không biết phân biệt giữa luật pháp Việt Nam với luật pháp quốc tế thì làm báo kiểu gì?
Vấn đề nói trên thì Đỗ Hùng cũng đã bị một ông Việt kiều Mỹ chỉnh cho. Tuy nhiên, bài viết của ông Việt kiều đó có một điểm sai lầm then chốt rất nghiêm trọng nhưng Đỗ Hùng vẫn đưa lên báo Thanh Niên bản điện tử, làm xấu tờ báo, chỉ vì bài viết đó “quảng cáo” cho tính “chính nghĩa”, “chính thống”, “chính danh”, “hợp pháp” của ngụy quyền Sài Gòn.
Đỗ Hùng không nghĩ là nếu ngụy quyền Sài Gòn quả thật đúng là có chính nghĩa, chính danh, chính thống, hợp pháp, thì cần gì Nhà nước VN phải công nhận hay không? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam có cần “VNCH” công nhận mình đâu? Thậm chí, họ chỉ quan tâm tới việc chống Mỹ, nói chuyện với Mỹ, chứ quan tâm gì tới “VNCH”? Suốt thời gian hội nghị Paris về Việt Nam, có người nào bên phía VNDCCH và CHMNVN nói 1 câu nào với đại biểu “VNCH” đâu?
Điểm sai lầm then chốt nghiêm trọng của bài viết là đi “quảng cáo” cho một khái niệm không có thật, không tồn tại, không hiện hữu, không căn cứ trên bất kỳ pháp lý quốc tế nào, đó là khái niệm “2 nước Việt Nam”, “2 quốc gia Việt Nam” hoặc “2 nhà nước Việt Nam”.
Thật ra chưa bao giờ tồn tại khái niệm “2 nước Việt Nam”, “2 nhà nước VN” hay “2 quốc gia VN”. Đó là một khái niệm hoang tưởng, phản logic, phản khoa học, phi lý, bởi vì làm sao có thể tồn tại cái khái niệm “2 nước Việt Nam”?
Nếu không thể có khái niệm “có 2 ông Nguyễn Văn Tèo” thì cũng không thể có khái niệm “2 nước Việt Nam”. Chỉ có thể có khái niệm “2 ông trùng tên Nguyễn Văn Tèo” hay khái niệm “2 nước trùng tên Việt Nam, đều có chữ Việt Nam trong tên nước chính thức”, chứ làm sao có thể có cái gọi là khái niệm “2 nước Việt Nam”?
Đó là sự ngộ nhận then chốt nghiêm trọng của một số người đang nghiên cứu về vấn đề pháp lý quốc tế liên quan đến luật biển và tranh chấp chủ quyền. Sở dĩ họ nhầm lẫn như nói trên là vì họ ngộ nhận các danh từ “North Vietnam”, “South Vietnam” mà các chính phủ nước ngoài gọi hai miền Việt Nam với ý nghĩa là hai đất nước, quốc gia khác nhau và “độc lập” với nhau. Nhưng các “nhà nghiên cứu” nghiệp dư này lại lầm tưởng các danh từ này được các chính phủ nước ngoài gọi với ý nghĩa là gọi 2 miền của 1 nước Việt Nam, hay 2 nước Việt Nam. Các “nhà nghiên cứu” này thấy có chữ “Vietnam” trong đó nên đã lầm tưởng như vậy, vô tình (hay cố ý?) gây ngộ nhận cho độc giả.
“North Vietnam” và “South Vietnam” chỉ là một cách gọi tên nước không chính thức của một số chính phủ nước ngoài, theo đó trên dãy đất này có các quốc gia khác nhau cùng có chữ “Việt Nam” trong tên nước chính thức. Một số người đã nhầm lẫn khái niệm 2 quốc gia khác nhau với khái niệm 2 nước Việt Nam, vốn là một khái niệm hoang tưởng và không tồn tại trên luật pháp quốc tế.
Xin lưu ý là các chính phủ nước ngoài gọi “Bắc Việt Nam” (North Vietnam), “Nam Việt Nam” (South Vietnam) như một danh từ, một tên nước không chính thức, và có ý nghĩa chính trị. Một số báo chí và cả đài truyền hình trong nước khi chuyển ngữ đã nhầm lẫn với từ “miền Bắc Việt Nam” (northern Vietnam), “miền Nam Việt Nam” (southern Vietnam), và có ý nghĩa vùng miền địa lý.
Nói chung, một số chính phủ nước ngoài cho rằng trên dãy đất này có 2 quốc gia khác nhau, và sau đó là 3 quốc gia khác nhau, với những “quốc kỳ”, “quốc ca”, “thủ đô”, đồng bạc, chính phủ, quân đội, và vùng kiểm soát, quản lý khác nhau. Chứ không phải họ coi “Việt Nam có 2 nước”, “VN có 2 nhà nước”, “VN có 2 quốc gia”, hay “2 nước Việt Nam”, “2 nhà nước VN”, “2 quốc gia VN”.
Làm sao có thể tồn tại cái khái niệm Việt Nam có 2 nước, hay 2 nhà nước, hay 2 quốc gia? Đó là một khái niệm phi thực tế và bất khả thi, thậm chí ảo tưởng và loạn logic. Giống như bây giờ bảo nước A có 2 nước, nhà nước A có 2 nhà nước, quốc gia A có 2 quốc gia. Hoặc có 2 nước A, 2 nhà nước A, 2 quốc gia A. Hoặc ông A có 2 người, hay có 2 ông A, tức là một loại “logic” quái gỡ kỳ quặc vô phương lý giải.
Thí dụ: Trên bán đảo Triều Tiên có 2 đất nước, quốc gia khác nhau, một là nước CHDCND Triều Tiên, hai là nước Hàn Quốc, không tồn tại khái niệm 2 nước Triều Tiên, 2 nhà nước Triều Tiên, hay 2 quốc gia Triều Tiên. Cũng như các danh từ “North Vietnam” (Bắc Việt Nam), “South Vietnam” (Nam Việt Nam), các danh từ “North Korea” (Bắc Triều Tiên, Bắc Hàn), “South Korea” (Nam Triều Tiên, Nam Hàn) được các chính phủ quốc tế sử dụng như một tên nước không chính thức, và dùng nó với ý nghĩa là 2 đất nước, nhà nước, quốc gia khác nhau.
Ấn Độ và Pakistan sau khi chia cắt thì thành 2 quốc gia, làm gì có khái niệm 2 nước Ấn Độ, 2 quốc gia Ấn Độ, 2 nhà nước Ấn Độ?
Ngay cả CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thì thế giới xưa nay cũng chỉ có hai hướng quan niệm, một là Trung – Đài là 2 quốc gia khác nhau, hai là nguyên tắc 1 nước Trung Hoa mà Bắc Kinh đang theo đuổi, chứ làm gì có khái niệm 2 nước Trung Hoa, 2 quốc gia Trung Hoa, 2 nhà nước Trung Hoa?
Dĩ nhiên, những vấn đề trên là nói đến các cách gọi của một số chính phủ nước ngoài. Còn lập trường, quan điểm, tâm tư tình cảm của dân tộc Việt Nam thì là khác. Đối với đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị giặc từ bên ngoài kéo quân đến xâm lược và phải đánh đuổi mọi ảnh hưởng của chúng đi để giành lại độc lập, hòa bình, thống nhất. Và thực tế những gì diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam cũng phù hợp với quan điểm, lập trường của dân tộc Việt Nam.
Thời Pháp, các chính phủ nước ngoài nói rằng tại Việt Nam có 2 nhà nước, Nam Kỳ là của nhà nước Đại Pháp, và nhà nước Đại Nam ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ do Pháp “bảo hộ”. Họ nói rằng Việt Nam có 3 chế độ cai trị Bắc – Trung – Nam khác nhau. Nhưng đối với quan điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị thực dân Pháp cai trị.
Thời Mỹ, các chính phủ nước ngoài nói rằng ở Việt Nam có 2 quốc gia khác nhau: Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Nhưng đối với quan điểm và lập trường của đại khối dân tộc Việt Nam thì chỉ có 1 nước Việt Nam bị giặc Mỹ xâm lược, và nửa bờ cõi Việt Nam bị đế quốc Mỹ thống trị.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 4, tháng 4 năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị, đã kết luận: “Chúng ta phải nhớ rằng, kẻ thù của nhân dân ta là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta và chúng đang chuẩn bị chiến tranh vì vậy chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hòa bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng và cảnh giác.”
Đỗ Hùng và một số người trong báo Thanh Niên, cũng như một số người khác mà còn nghĩ mình là công dân Việt Nam nên nhớ: Trên lãnh thổ Việt Nam thì luật pháp Việt Nam là cao nhất, lớn nhất! Còn luật pháp quốc tế là một nguồn tham khảo quan trọng. Luật pháp quốc tế không đứng trên luật pháp và đạo lý Việt Nam.
Trong một số tranh chấp chủ quyền, các bên có thể sẽ phải căn cứ trên luật pháp quốc tế để tranh tụng tại tòa, nhưng điều đó không có nghĩa ông dựa vào đó rồi ông tự cho mình cái quyền đi lợi dụng chức quyền báo chí của mình để tuyên truyền thông điệp hạ thấp luật pháp và đạo lý Việt Nam, đặt quan điểm luật pháp và góc nhìn của nước ngoài lên trên nước nhà, đầu độc thế hệ trẻ.
Tại sao phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng?
Công hàm Phạm Văn Đồng là một công hàm có nội dung cho biết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc đúng theo thông lệ quốc tế, và thực tế sau này con số 12 hải lý đó đã được quy định trong pháp lý quốc tế, luật biển Liên Hiệp Quốc.
Công hàm đó không phải là một công hàm chuyển giao Hoàng Sa cho Trung Quốc, vì nội dung công hàm không có ý nghĩa như thế. Nội dung công hàm không có một chữ nào nói về vấn đề chuyển nhượng chủ quyền hay vấn đề Hoàng Sa.
Chủ quyền lãnh thổ là việc của Quốc hội, không phải việc của Thủ tướng. Thủ tướng không phải là người quyết định chủ quyền. Do đó, bức thơ này của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có ý nghĩa về chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam. Luật pháp Việt Nam xưa nay quy định lãnh thổ Việt Nam là bất khả xâm phạm, do đó không chỉ có Thủ tướng, mà cả Quốc hội cũng không có quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Do đó, bức thơ này không có ý nghĩa chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ VN.
Trong trường hợp này, giả sử nếu có, sự chuyển nhượng cũng không có giá trị, không có hiệu lực và không đúng với luật pháp quốc tế. Như trên đã nói, bà Monique Chemillier-Gendreau, nữ giáo sư thạc sĩ ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học Paris VII – Denis Diderot của Pháp, đã ghi nhận: “Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không có quyền lực.” Năm 1958, Việt Nam không kiểm soát, quản lý Hoàng Sa. Do đó, Việt Nam không thể chuyển nhượng hay bàn giao nơi này cho bất cứ ai.
Dù cho coi Hoàng Sa lúc đó là của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của Mỹ, hay “của VNCH” đi nữa, thì sự thật thực tế là năm 1958 VNDCCH không kiểm soát Hoàng Sa, cho nên không thể chuyển nhượng cái mà mình không kiểm soát, quản lý thực tế.
Còn nếu muốn hứa hẹn chuyển nhượng trong tương lai sau khi đã giành lại địa điểm đó, thí dụ VNDCCH nếu muốn hứa sẽ chuyển giao Hoàng Sa cho Trung Quốc khi nào giành lại Hoàng Sa từ tay Mỹ, thì nội dung phải nói cụ thể rõ ràng điều đó. Nhưng nội dung công hàm Phạm Văn Đồng không có điều nào như vậy.
Như vậy, trong trường hợp này, giả sử nếu có, thì sự chuyển nhượng đó là không có giá trị pháp lý, vừa không có giá trị pháp lý Việt Nam, vừa không có giá trị pháp lý quốc tế.
Đó là các vấn đề chính, nội dung chính trong bản công hàm. Còn tất cả những cái khác đều là Trung Quốc suy diễn, xuyên tạc, tuyên truyền theo lợi ích và lòng tham của họ. Bọn tàn dư ngụy là bọn bán nước, nên không có gì lạ khi bọn họ hùa theo trò xuyên tạc của Trung Quốc, giúp chứng minh Hoàng Sa đã bị bán cho Trung Quốc, có nghĩa là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, giúp Trung Quốc củng cố chủ quyền trái phép. Ngoài Trung Quốc và bọn bán nước người Việt ra, không một ai trên thế giới này diễn giải ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng theo kiểu xuyên tạc trắng trợn và lố bịch đó.
12 hải lý theo quyền hạn quốc gia căn cứ trên luật biển quốc tế. Nguồn số liệu: United Nations Convention on the Law of the Sea – Luật biển Liên Hiệp Quốc
Vậy tại sao cần phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, tại sao cần phải vô hiệu hóa vấn đề Việt Nam tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc, điều đó có gì sai?
Còn nếu ông cứ cố gắng tưởng tượng, tâm thần hoang tưởng kiểu Nguyễn Doãn Kiên, một tay cực đoan cuồng tín, thần kinh hoang tưởng trong Pháp Luân Công rằng công hàm đó có ý nghĩa là một hợp đồng chuyển nhượng chủ quyền, thì tại sao cần phải vô hiệu hóa cái vốn đã vô hiệu ngay từ ban đầu, như đã phân tích ở trên?
Con số chình ình 12 hải lý giấy trắng mực đen trong bản công hàm có chữ ký của cụ Đồng. “12 hải lý” là một nội dung cụ thể được định rõ (definite) và không thể suy diễn. Tất cả những nội dung khác không phải là nội dung cụ thể được định rõ, nên không có tác dụng, không có giá trị pháp lý, không có hiệu lực pháp lý khi tranh tụng tại tòa án quốc tế, dù.cho các nội dung đó bị Trung Quốc lợi dụng, suy diễn mơ hồ lệch lạc, uốn nắn bẻ cong ý nghĩa nội dung, vặn vẹo chữ nghĩa, vặn vẹo nội dung công hàm.
Trung Quốc lâu nay chỉ có các “bằng chứng” về sự thám hiểm và khám phá của họ, chứ không có những bằng chứng về sự xác lập chủ quyền của họ như các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn triều Minh Mạng của Việt Nam đã làm. Do đó họ bị yếu lý luận và đành phải bám vào bất cứ “chiếc phao” nào có thể.
Bọn chống cộng cực đoan ở Bolsa không biết gì nên phụ họa hùa theo Trung Quốc đã đành, đàng này Đỗ Hùng còn tệ hơn cả bọn họ, phụ họa theo cả Trung Quốc và bọn chống cộng cực đoan Bolsa.
oOo
Phải chăng vì những ngộ nhận, nhầm lẫn tai hại nghiêm trọng này mà Đỗ Hùng và báo Thanh Niên mấy năm nay luôn là một trong những anh chàng “hiệp sĩ” Kihôtê tiên phong đi đầu, phụ họa đi theo một nhóm phản động phá hoại đất nước tiếm danh “nhân sĩ, trí thức”, đi đầu trong nỗ lực cào bằng “quân bình hóa” các giá trị lịch sử, “đốt đền thờ”, đánh thức, vực dậy và phục dựng cái thây ma gọi là “VNCH”?
Họ làm vậy là do họ ngộ nhận, không hiểu biết, vô ý thức, vô trách nhiệm, hay họ là một nhóm lợi ích trong ngành báo, vì lợi ích nhóm nào đó nên muốn tìm kiếm “liên minh” với đám tàn dư ngụy đầu sỏ phản động lưu vong trên đất Mỹ?
Hay là họ bị hoang tưởng về khái niệm “thế giới phẳng”, nghĩ rằng thế giới phẳng thì phải cào bằng lịch sử dân tộc, cào bằng cả thế giới, xem ai cũng như ai, phe nào cũng giống phe nào?
Quyền lực thứ 4 mà như thế này thì hại nước, hại dân.
Nguồn: Thiếu Long
Tin cùng chuyên mục:
Vụ tai nạn thương tâm từ máy bay không người lái: Hồi chuông cảnh báo về an toàn công nghệ
Vụ thợ trang điểm bị lục soát người: Góc nhìn pháp lý và bài học về quyền cá nhân
UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và luận điệu sai trái của Nguyễn Xuân Diện
Cà phê phố