Lâm Trực@
Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, chưa bao giờ văn học nghệ thuật chỉ là một thú chơi chữ nghĩa vô thưởng vô phạt. Nó luôn gắn liền với khát vọng, với lẽ sống và với sự tồn vong của một cộng đồng. Vì vậy, những ý kiến xuyên tạc phủ nhận văn học nghệ thuật cách mạng, phủ nhận bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, không chỉ là sai lạc học thuật mà còn là một sự xúc phạm tới ký ức tập thể, tới máu xương của hàng triệu con người Việt Nam đã ngã xuống.
Bài viết “Hư cấu trong nghệ thuật và hư cấu trong tuyên truyền” của Phạm Đình Trọng là một ví dụ tiêu biểu. Ở đó, tác giả cố tình đánh đồng hư cấu nghệ thuật, vốn là một thủ pháp sáng tạo tất yếu trong văn chương, với sự dối trá tuyên truyền. Từ sự đánh đồng này, ông ta đi xa hơn: phủ nhận những tác phẩm kinh điển của văn học nghệ thuật cách mạng, bôi nhọ vai trò của người nghệ sĩ trong chiến tranh, và đặc biệt, xuyên tạc bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam thành một “cuộc nội chiến Nam – Bắc”.
Phạm Đình Trọng – kẻ đang bóp méo lịch sử dân tộc. Ảnh: Facebook.
Cần phải nói rõ: hư cấu trong nghệ thuật là phương tiện để biểu đạt sự thật ở tầng cao hơn. Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoy hay Những người khốn khổ của Victor Hugo đều là hư cấu. Nhưng từ hư cấu ấy, con người tìm thấy sự thật lịch sử, sự thật nhân văn và sự thật của tâm hồn. Văn học cách mạng Việt Nam cũng đi theo con đường ấy. Hòn Đất của Anh Đức, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Mưa đỏ của Chu Lai, Vĩ tuyến 17 – ngày và đêm của Hải Ninh… đều mang dấu ấn hư cấu, nhưng cái cốt lõi của chúng là sự thật: một dân tộc bị xâm lược và một dân tộc quyết tâm giành lại độc lập.
Nếu những tác phẩm ấy chỉ là “tuyên truyền rẻ tiền” như luận điệu của Phạm Đình Trọng, liệu chúng có đủ sức sống để tồn tại qua nhiều thế hệ, để giành giải thưởng trong nước và quốc tế, để khắc sâu vào ký ức dân tộc? Văn học nghệ thuật giả dối không bao giờ có tuổi thọ dài như thế.
Điểm xuyên tạc nguy hiểm nhất trong bài viết của ông ta là gọi chiến tranh Việt Nam là “nội chiến”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm. Bởi lẽ, sau Hiệp định Genève 1954, đất nước tạm thời chia cắt và dự kiến sẽ tổng tuyển cử thống nhất năm 1956. Chính quyền Ngô Đình Diệm – được Mỹ dựng lên và hậu thuẫn – đã từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, đồng thời phát động phong trào “tố cộng, diệt cộng” đẫm máu. Trong bối cảnh ấy, phong trào Đồng khởi nổ ra, rồi sau đó là cả một cao trào cách mạng miền Nam. Đây không phải là “người Việt bắn vào nhau vô nghĩa”, mà là nhân dân miền Nam chống lại một chính quyền tay sai do ngoại bang dựng lên.
Thực tế lịch sử càng khẳng định bản chất xâm lược của cuộc chiến: năm 1968, Mỹ có tới hơn 536.000 quân viễn chinh trên đất Việt Nam, cùng hàng chục vạn lính chư hầu từ Hàn Quốc, Úc, Thái Lan, Philippines. Nếu đây là “nội chiến”, vậy hàng nửa triệu lính Mỹ có mặt ở Việt Nam với tư cách gì? Liệu lính Mỹ chết ở Khe Sanh có phải là “người Việt Nam” không? Đó là câu hỏi mà mọi sự ngụy biện đều phải câm lặng.
Trên không gian mạng, có kẻ còn so sánh văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam với “tuyên truyền phát xít Đức”. Đó là một sự xúc phạm nghiêm trọng. Tuyên truyền phát xít là để biện minh cho xâm lược và diệt chủng. Văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam là để tố cáo xâm lược và khẳng định quyền sống chính đáng của dân tộc. Một bên phục vụ cho cái ác, một bên cất tiếng nói vì tự do – không thể nào đánh đồng.
Cũng có kẻ rêu rao rằng thanh niên Việt Nam trong kháng chiến chỉ là “những nạn nhân bị lợi dụng”. Đây là một sự bôi nhọ thô thiển. Nếu chỉ là nạn nhân, tại sao hàng triệu người tự nguyện khoác ba lô ra trận? Tại sao cả một thế hệ từ thành thị tới nông thôn, từ học sinh, sinh viên đến nông dân đều xếp hàng nhập ngũ? Không ai có thể “lợi dụng” được cả một dân tộc đã lựa chọn đứng lên để làm chủ vận mệnh. Sự hy sinh ấy là bi kịch, nhưng đồng thời là vinh quang. Nó là minh chứng cho sức mạnh tinh thần mà không một thế lực ngoại bang nào có thể khuất phục.
Một số luận điệu khác còn cho rằng chiến thắng 1975 chỉ là thắng lợi của “một phe miền Bắc”, còn miền Nam bị “áp đặt”. Lập luận này cố tình xóa nhòa thực tế: từ phong trào Đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, cho tới hàng triệu đồng bào miền Nam nuôi giấu, che chở cách mạng, tất cả đều chứng minh rằng thắng lợi 30/4 là kết quả chung của cả dân tộc. Nếu chỉ có miền Bắc, liệu đất nước có thể trụ vững hai mươi năm trong khói lửa, để rồi giành chiến thắng trọn vẹn? Chính miền Nam đã vùng lên, cùng miền Bắc làm nên mùa xuân lịch sử.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một cuộc chiến giải phóng dân tộc. Sự thật ấy đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận, đã đi vào lịch sử nhân loại. Văn học nghệ thuật cách mạng là vũ khí tinh thần, là ký ức máu thịt của dân tộc, đã và sẽ còn sống mãi trong tâm hồn các thế hệ người Việt. Bất cứ sự bôi nhọ nào cũng đều vô nghĩa trước sự thật ấy.
Nhưng sự thật, để bất tử, cần có những con người bảo vệ nó. Trong thời đại bùng nổ thông tin hôm nay, khi mạng xã hội là nơi ngôn từ dối trá dễ dàng lan truyền, trách nhiệm của giới trí thức, văn nghệ sĩ càng trở nên nặng nề. Họ không chỉ có sứ mệnh sáng tạo, mà còn phải lên tiếng giữ gìn ký ức lịch sử, bảo vệ những giá trị đã được cha ông khẳng định bằng máu. Mỗi bài thơ trung thực, mỗi trang văn chân thành, mỗi tiếng nói dũng cảm đều là một tấm khiên chống lại sự xuyên tạc.
Lịch sử đã từng đòi hỏi một thế hệ biết cầm súng. Hôm nay, lịch sử lại đòi hỏi một thế hệ biết cầm bút, biết giữ gìn sự thật. Và đó là trách nhiệm không ai có thể thoái thác.
Cái nhìn của Phạm Đình Trọng về văn học cách mạng như tuyên truyền phát xít và kháng chiến là nạn nhân bị lợi dụng thì thật ngây thơ đấy! Như ông bảo, văn nghệ là vũ khí, thì kẻ thù của vũ khí là ai mà không phải là những kẻ xuyên tạc như ông ấy. Việc gọi chiến tranh là nội chiến thì đúng là đánh tráo khái niệm đỉnh cao, giống như bảo bánh mì là bánh kẹo vậy. Mấy câu hỏi của ông về lính Mỹ và người miền Nam thì cứ để mặc cho lịch sử trả lời, nó sẽ câm lặng khi đối mặt với sự thật. Cảm ơn bài viết đã khẳng định lại giá trị của ký ức và trách nhiệm của người cầm bút, dù có những ý kiến mới lạ như của ông.