Hồ Anh Hải
Trong sách Giấc mơ Trung Quốc, tác giả Lưu Minh Phúc đặc biệt viết nhiều về sự bá đạo, bá quyền của Mỹ và vương đạo của Trung Quốc. Tác giả dành cả chương II (có số trang nhiều thứ 2 trong 8 chương của sách này) để trình bày về cái gọi là bá quyền của nước Mỹ và dành chương III và IV (số trang nhiều thứ 6 và 5) để nói về những cái hay cái tốt của Trung Quốc. Nhìn chung, tác giả dùng số trang nhiều nhất để nói về nước Mỹ – về mặt hay mặt tốt cũng như mặt xấu mặt dở. Số trang viết về Trung Quốc thì ít hơn nhiều; bởi lẽ tác giả cũng chẳng biết nói gì về những cái hay cái tốt của nước mình.
Lưu Minh Phúc hoàn toàn chỉ nói về những cái tốt của nước ông, nhằm để nhân dân thế giới đừng e ngại Trung Quốc trỗi dậy trở thành “quốc gia quán quân”, “quốc gia lãnh tụ” thì sẽ đe dọa hòa bình và ổn định trên thế giới. Hãy thử xem vài cái tốt của Trung Quốc.
Tác giả viết Trung Quốc không có tội tổ tông, cho nên có tư cách nhất làm lãnh tụ thế giới! Tất cả các nước lớn trỗi dậy khác đều “có tiền sử phạm tội”, như buôn bán nô lệ châu Phi hồi thế kỷ XV-XVIII, xâm lược, chinh phục thuộc địa…
Ai cũng biết các vua chúa Trung Quốc chẳng cần sang tận châu Phi để mua nô lệ. Bởi lẽ dưới tay họ đã có sẵn hàng triệu nô lệ! Họ coi dân nước mình là nô lệ 100% và áp bức bóc lột dân đến xương tủy. Thời thịnh trị nhà Đường, vua có 3000 cung nữ – chính là 3000 nô lệ tình dục của một gã đực rựa dâm ô. Nước này cũng phát minh ra chế độ hoạn quan cực kỳ dã man: hàng nghìn nam giới bị cắt bộ phận sinh dục chỉ vì để phục vụ nhu cầu của một gã nam giới khác. Hơn 1 triệu người dân chết trong công trình đắp Vạn lý Trường thành. Như vậy sao có thể nói Trung Quốc không có tội tổ tông?
Tác giả viết người Trung Quốc có tính cách yêu hòa bình, đế quốc Trung Hoa lớn mạnh mà không chinh phục, không có thuộc địa ở nước ngoài, vì thế các nước nhược tiểu xung quanh như Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan… vẫn giữ được độc lập.
Ở đây tác giả đã có những nhầm lẫn lịch sử đáng tiếc.
Việt Nam chẳng đã bị Trung Quốc thống trị 1000 năm đấy sao. Nhưng họ không đồng hóa nổi dân tộc Việt và cuối cùng bị dân ta vùng dậy đánh đuổi, giành độc lập cho đất nước mình. Tuy thất bại cay đắng như thế nhưng sau đó các vương triều phương Bắc còn mấy lần cất đại quân sang “thảo phạt” Việt Nam, lần nào cũng thua nhục nhã.
Tác giả còn nêu “sự kiện nổi tiếng nhất” là đời Hán Nguyên Đế, triều thần quyết định bỏ không chiếm quận Châu Nhai ở đảo Hải Nam, coi đó như một minh chứng nhà Hán không chủ trương mở rộng lãnh thổ.
Thực ra đó là do đất Trung Quốc quá rộng, chính quyền trung ương quản lý không xuể, lại thêm trong nước luôn luôn rối loạn vì nông dân khắp nơi nổi dậy chống lại triều đình, quân đội đàn áp dân trong nước còn chưa xong, sao mà dám đem quân ra nước ngoài đánh chiếm thuộc địa? Nếu làm thế thì ngai vàng nhà vua sẽ lập tức bị loạn thần hoặc nông dân khởi nghĩa cướp mất.
Tác giả nói nguyên nhân nông dân Trung Quốc nổi dậy nhiều là do nước này thiếu đất trồng trọt nhưng chính quyền không làm như phương Tây, tức đem quân đi cướp đất nước ngoài để chuyển dịch mâu thuẫn ra ngoài, mà chỉ “vận dụng phương pháp hướng nội, tập trung giải quyết ở trong nước mọi mâu thuẫn”.
Giải thích như thế là ngụy biện. Nông dân Trung Quốc khởi nghĩa đánh lại triều đình chỉ vì họ bị áp bức bóc lột quá tàn ác, không còn đường sống nữa. Hầu hết các cuộc khởi nghĩa ấy đều bị triều đình dìm trong biển máu. Nếu thắng lợi thì ông trùm khởi nghĩa lại trở thành ông vua mới, tàn ác với dân mình chẳng khác gì vua cũ.
Rõ ràng các vương triều Trung Quốc thực hành bá đạo với chính thần dân của mình, thế mà Lưu Minh Phúc dám nói bừa là thực hành vương đạo! Một chính quyền bá đạo với chính đồng bào mình thì sao lại vương đạo với nhân dân các nước khác? Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi tố cáo chính quyền nhà Minh đối xử tàn ác khủng khiếp với nhân dân ta: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Tướng Lưu Á Châu (người viết Lời Tựa sách Giấc mơ Trung Quốc) vạch trần bản chất của các tầng lớp cai trị Trung Quốc đều là “đối ngoại mềm mỏng, đối nội tàn nhẫn”. Đây chính là nguyên nhân làm cho nhiều người Trung Quốc căm ghét chính quyền; lúc bình thường lắm phe phái đánh lẫn nhau rình rập cướp quyền bính, khi có ngoại xâm thì không ít người theo địch chống lại chính quyền nước mình. Lưu Á Châu nói Trung Quốc thời bị Nhật xâm lược có rất nhiều Hán gian chính là vì thế.
Lưu Minh Phúc tô son điểm phấn cho tổ tiên mình trong khi chính ông lại viết: đế quốc Trung Hoa có nhiều nội chiến, đế quốc phương Tây có nhiều “ngoại chiến”, các cuộc khởi nghĩa của nông dân Trung Quốc nhiều nhất, quy mô lớn nhất thế giới, ở nước này nội chiến nhiều “ngoại chiến” ít.
Tóm lại, đế quốc Trung Hoa không chú trọng chinh phục và xâm lược nước ngoài chẳng phải vì họ yêu hòa bình và thực hành “vương đạo”, mà vì họ muốn mà không dám làm, không làm nổi. Thế kỷ XII, thủy quân nhà Nguyên đánh Việt Nam và Nhật Bản đều thua trận phải cuốn xéo về nước, là những chứng cớ hiển nhiên mà tác giả cố tình bỏ qua.
Nói cách khác, họ rất muốn làm Bá nhưng không làm được. Thấy Mỹ làm được vai trò ấy họ sinh ra ganh tị và chê Mỹ đủ thứ xấu.
Làm được vai trò Bá như nước Mỹ đâu dễ! Đó là vai trò kẻ giữ trật tự công cộng, cảnh sát chỉ đường. Tác giả nói Trung Quốc muốn làm “quốc gia quán quân, lãnh tụ” nhưng không muốn làm bá quyền, chỉ làm “quốc gia dẫn dắt” thôi. Nhưng chính tác giả thừa nhận Trung Quốc hiện chưa cắm được ngọn cờ văn hoá lên điểm cao khống chế thế giới, chưa có giá trị quan nào thu hút toàn cầu như giá trị quan tự do dân chủ của Mỹ – thế thì sao mà dẫn dắt thế giới được?
Tác giả viết: Trung Quốc sẽ lãnh đạo thế giới nhưng không làm bá đạo như Mỹ mà thực hành vương đạo. Bản chất của vương đạo là đạo đức nhân nghĩa, dựa nguyên tắc “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (lời Khổng Tử: Điều mình không thích thì chớ đem đến cho người khác), kiên trì bình đẳng, công bằng, chân thành rộng lượng, hòa bình, dùng sức mạnh đạo đức để cảm hóa kẻ khác chứ không áp bức họ, phòng ngự tự vệ chứ không đánh trước, không lạm dụng vũ lực.
Người Trung Quốc có thói quen nói một đằng làm một nẻo, thậm chí cậy thế to mồm vu vạ kẻ hiền lành thành kẻ tội phạm. Nói vương đạo, nhưng thực tế trong cách giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông, họ luôn luôn ưa dùng sức mạnh, cậy ta đây lắm tàu nhiều súng bắt nạt kẻ yếu.
Năm 1974 Trung Quốc cướp đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Nhiều năm nay họ ngang nhiên ra lệnh cấm đánh cá trên vùng biển có tranh chấp rồi cho tàu ngư chính (vốn là tàu tuần dương thập niên 50 họ mua của Liên Xô cải tạo lại) đến biển Đông xua đuổi tàu đánh cá của ngư dân ta, thậm chí cho tàu (ta gọi là “tàu lạ”) đâm chìm nhiều tàu của ngư dân Việt Nam, đắm tàu chết người vô cùng dã man. Gần đây nhất họ hung hăng cho tàu hải giám (cũng là tàu chiến cải tạo) vào sâu vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam phá hoại hoạt động bình thường của tàu Việt Nam rồi lại lớn tiếng chỉ trích Việt Nam “gây căng thẳng”.
Như thế chẳng là Bá đạo thì là gì?
Bạn sẽ hỏi: đâu là nguồn gốc của tính cách thích làm Bá?
Hãy tìm về nền văn hoá truyền thống của họ.
Xin mượn lời chính họ nói: Người Trung Quốc ưa chuộng sức mạnh và bạo lực.
Chẳng dân tộc nào ưa chuộng sự yếu đuối, nhưng tôn thờ sức mạnh như người Trung Quốc thì quả là hiếm. Tiểu thuyết cổ đại viết về tình yêu chỉ có ở phương Tây, không có ở Trung Quốc. Mấy bộ tiểu thuyết cổ của nước này đều đề cao những kẻ có sức mạnh và lạm dụng bạo lực, cho dù dùng vào việc phi nghĩa. Thời xưa đã vậy; thế kỷ XX lại có châm ngôn Súng đẻ ra chính quyền. Nền văn hoá chuộng bạo lực, đấu đá, đánh đấm, chiến tranh ấy quyết định họ hành xử kiểu Bá, tức dùng vũ lực giải quyết mọi chuyện.
Các hảo hán trong Thủy Hử lạm dụng bạo lực vô hạn độ; chỉ vì để chứng tỏ võ công của mình mà họ sẵn sàng hại cả kẻ vô tội. Lý Quỳ giận lên là giết bất cứ ai mà không ghê tay. Võ Tòng khỏe vật chết hổ, nhẫn tâm giết bà chị dâu yếu đuối mà không thẹn với lương tâm kẻ nam nhi. Các nhân vật ấy được người Trung Quốc mê say ca ngợi – điều đó cho thấy văn hóa chuộng bạo lực của họ chính là nguồn gốc sinh ra tính cách thích làm Bá. Một nhà Hán học người Australia nói Thủy Hử là cuốn tiểu thuyết bệnh hoạn. Một nhà Hán học người Đức nhận định Tô Tem Sói tuyên truyền chủ nghĩa phát xít…
Tóm lại, vương đạo thì chẳng thấy đâu mà lịch sử cũng như hiện tại đều đầy rẫy những sự thật cho thấy bá đạo mới là thứ “đặc sản” của Trung Quốc.
Tin cùng chuyên mục:
UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và luận điệu sai trái của Nguyễn Xuân Diện
Cà phê phố
Ukraine nói điều đáng sợ về tên lửa mới của Nga
Trừng phạt Nga hay cuộc ‘chiến tranh kinh tế’ tổng lực của phương Tây trên khắp thế giới