BÍ ẨN KIẾN TRÚC TÒA THÁNH TÂY NINH

Người xem: 153

Bí ẩn kiến trúc Tòa Thánh Tây Ninh

Tòa Thánh Tây Ninh là một công trình được các chuyên gia kiến trúc nước ngoài đánh giá cao về thẩm mỹ, cũng như kỹ thuật xây dựng. Ít ai biết, công trình này được xây dựng không theo một bản thiết kế kiến trúc có trước, không có sự tham gia của bất kỳ kỹ sư nào và cũng không sử dụng bất cứ phương tiện máy móc gì. Cho đến nay, việc xây dựng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh vẫn là điều bí ẩn.

Vì sao Cao Đài thờ thiên nhãn ?

Khoảng cuối thế kỷ XIX, phong trào Thông linh học trở nên phổ biến sâu rộng trong giới nhân sĩ trí thức ở châu Âu. Thuyết Thông linh cho rằng, sau khi chết, con người vẫn tồn tại ở một thế giới khác và có thể liên lạc được với người sống thông qua một dụng cụ gọi là “ouija”, tức cầu cơ. Đó là từ ghép của từ “vâng, phải, đúng” trong tiếng Pháp và tiếng Đức.

Chớp thời cơ, năm 1890 Hãng Parker Brothers nhanh chóng sản xuất hàng loạt bàn cầu cơ có ký tự để bán. Nhà buôn Elijah Bond tung ra thị trường loại bàn cầu cơ mang thương hiệu Parker Brothers và nhanh chóng chiếm được một thị phần nhất định. Lúc đó, người ta xem cầu cơ là một trò chơi quý phái của giới thượng lưu.

Đến năm 1914, tiến sĩ William Crockes (Anh) đã báo cáo luận án nghiên cứu hiện tượng cầu cơ trong tập tài liệu có tiêu đề “Thông công với cõi vô hình” tại Đại hội Thần học thế giới diễn ra tại London.

Kể từ đó, phong trào cầu cơ bùng phát ở Pháp rồi lan nhanh sang Việt Nam.

Mặc dù các nhà tâm lý học đã thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng, cầu cơ chỉ là kết quả của “hiệu quả vô thức” (ideomotor effect) nhưng những tín đồ của cầu cơ vẫn tin rằng, đó là phương tiện duy nhất để liên hệ với người chết.

Dạo đó, nhiều nhân sĩ, trí thức miền Nam thường mời thân hữu đến nhà tổ chức cầu cơ đối đáp thi phú với linh hồn ma quỷ hoặc thần tiên như một kiểu giải trí thời thượng.

Trong một phúc trình của viên thanh tra Pháp tên Lalaurette gửi cho Thống đốc Nam Kỳ năm 1924 rằng: “Giới công tư chức Nam Kỳ nổi lên một phong trào tìm hiểu và thực hành thông công với thế giới siêu hình qua sách vở chữ Pháp do Hội Thông thiên học truyền bá, với các tác giả như Allan Kardec, Flammarion, Blavatsky, Annie Besant, Olcott. Một làn sóng Thông linh học lan tràn khắp Đông Dương”.

Trước tình hình đó, chính quyền Pháp ban hành một loạt sắc luật cấm cầu cơ. Dù vậy, việc cầu cơ vẫn xuất hiện khắp Việt Nam. Một số quan chức chính quyền địa phương vẫn ngấm ngầm lập đàn tại tư gia. Có người còn xây cất hương án cố định để thường xuyên liên lạc với cõi vô hình như: đàn Hiệp Minh (ở Cái Khế, Cần Thơ); đàn Minh Thiện (Thủ Dầu Một); đàn Chợ Gạo (Tiền Giang); đàn Miếu Nổi (Bình Thạnh, TP HCM); đàn Cao Lãnh (Đồng Tháp)…

Năm 1902, tri phủ Ngô Minh Chiêu được một người quen giới thiệu tham dự một phiên hầu đàn cầu cơ ở Thanh An tự, Thủ Dầu Một. Tại buổi cầu cơ này, ông Ngô Minh Chiêu được một vị tiên ông giáng cơ bút đối đáp bằng thơ.

Đến năm 1917, nghe tin đàn Hiệp Minh (Cái Khế, Cần Thơ) được nhiều vị tiên giáng cơ, ông Ngô Minh Chiêu tìm đến hầu đàn xin toa thuốc Nam.

Sau đó, ông Ngô Minh Chiêu tự lập đàn cầu cơ bút tại nhà riêng của mình ở Tân An (Long An). Hằng đêm, ông mời thân hữu đến nhà xướng họa thơ với “đấng vô hình” trong các buổi cầu cơ. Những thân hữu này đều là những người có địa vị xã hội như: Hương bộ Lê Kiển Thọ, thầy giáo Nguyễn Văn Vân, nhà giáo kiêm soạn giả nổi tiếng Trần Phong Sắc…

Lịch sử đạo Cao Đài ghi nhận rằng, vào một đêm cầu cơ năm 1920, bất ngờ một “đấng vô hình” xưng là “Cao Đài Tiên Ông” thu nhận ông Ngô Minh Chiêu làm đệ tử để truyền dạy một thuyết đạo mới.

Tháng 10/1920, ông Ngô Minh Chiêu được cử ra đảo Phú Quốc làm tri huyện. Tại đây, ông Chiêu cầu cơ xin Tiên Ông Cao Đài ban cho một biểu tượng của đạo mới.

Buổi sáng ngày 20/4/1921, ông Chiêu bất ngờ trông thấy bầu trời trên mặt biển một vầng hào quang. Giữa vầng hào quang hiện rõ một con mắt thật lớn. Từ đó, hình Thiên Nhãn được lấy làm biểu tượng của đạo Cao Đài. Và ông Ngô Minh Chiêu trở thành Giáo chủ đạo Cao Đài Chiếu Minh.

Đến cuối năm 1925, một nhóm nhân sĩ trí thức thường xuyên cầu cơ giải trí tại Sài Gòn cũng bắt gặp “Cao Đài Tiên Ông” giáng cơ thu nhận làm đệ tử. Chủ xướng nhóm này gồm các ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc. Sau này có thêm ông Lê Văn Trung, bà Lâm Hương Thanh.

Theo lời hướng dẫn của Cao Đài Tiên Ông qua cầu cơ, ngày 16/2/1925, nhóm nhân sĩ trên lập một đàn cầu đạo mới tại tư gia ông Cao Quỳnh Cư ở đường Bourdais (nay là đường Calmette, quận 1, TP HCM).

Ngày 18/11/1926, được tín đồ ghi nhận là ngày khai đạo “Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ Cao Đài” (gọi tắt là Cao Đài Tây Ninh) tại ngôi chùa Gò Kén, tức Từ Lâm tự – một ngôi chùa Phật giáo ở Tây Ninh. Chùa Gò Kén do Hòa thượng Thích Như Nhãn (tức Hòa thượng Thích Giác Hải) trụ trì.

Sau lễ khai đạo, Hòa thượng Thích Như Nhãn yêu cầu đạo Cao Đài đi tìm nơi khác xây dựng cơ sở thờ tự. Nhóm môn đệ Cao Đài đi tìm mua một cuộc đất rừng 50 ha ở làng Long Thành (bây giờ là Hòa Thành, Tây Ninh) từ một người Pháp tên là Aspar để xây “tổ đình”. Theo phong thủy thì vùng đất nơi ấy có 6 mạch nước ngầm hội tụ, gọi là “lục long phò ấn”.

Trung tâm cuộc đất được chọn làm nơi xây tổ đình, tức Tòa Thánh.

Ảnh: Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, năm 1950.

Thiết kế kiến trúc bằng cơ bút

Chọn được địa điểm xây dựng Tòa Thánh, những người khai đạo bắt đầu vận động tín đồ góp công, góp của xây dựng. Hàng chục ngàn lượt tín đồ từ khắp nơi nghe tin xây dựng tổ đình đã lần lượt kéo về tham gia xây dựng. Ngày khởi công được đánh dấu là 16/3/1927. Tuy nhiên vì nhiều lý do, mãi đến năm 1931, công trình mới chính thức được động thổ.
Chỉ huy công trình là những vị trong nhóm khai đạo. Điều đáng ngạc nhiên là, những người trong nhóm khai đạo chưa từng kinh qua kiến thức xây dựng cơ bản. Họ cũng không vẽ trước bản kiến trúc mà xây dựng theo sự hướng dẫn của cơ bút.

Căn cứ vào cơ bút thì tổ đình, tức Tòa Thánh Tây Ninh được “đấng bề trên” phác họa thành 3 phần: Bát Quái đài, Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài. Cả 3 tòa kiến trúc này dính liền với nhau tạo thành Tòa Thánh, chiều ngang 27 mét và chiều dài 135 mét.

Sau 3 lần xây dựng dở dang vì nhiều lý do, ngày 14/2/1936 ông Phạm Công Tắc – Giáo chủ đạo Cao Đài – đứng ra trực tiếp chỉ huy công trình. Lần xây dựng thứ 4 này, Giáo chủ Phạm Công Tắc huy động 500 tín đồ nam, nữ lập đàn tuyên thệ đồng trinh giữ tịnh khiết suốt thời gian trực tiếp tham gia xây dựng. Những tín đồ này phải thề không lấy chồng, lấy vợ.

Trong suốt thời gian xây dựng, tất cả các công đoạn đều làm bằng tay. Xây đến đâu, ông Phạm Công Tắc thiết kế bằng miệng đến đó. Điều lạ là, rất nhiều người là nông dân chưa từng học qua trường lớp mỹ thuật nào vẫn tạo tác thành công hàng chục ngàn họa tiết điêu khắc, hàng chục bức tượng đạt trình độ mỹ thuật cao.

Giai thoại kể rằng, có một số người bị mắc chứng bệnh nan y, nghe tin xây dựng Tòa Thánh, tuy không có trong “biên chế” 500 công thợ xây dựng vẫn đến phụ trợ những việc vặt với ý nghĩ “tạo công quả trước khi chết”. Xác nhận điều này, ông Nguyễn Văn Ngôn, 72 tuổi, cư ngụ tại phường Hiệp Ninh, thành phố Tây Ninh cho biết: “Cha tôi là dân Chợ Mới, An Giang. Năm 30 tuổi, cha tôi bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, bụng trương phình lần thứ 2, da vàng. Ông trị tây y, đông y đủ phương vẫn không hết.

Ông bảo, về tham gia xây dựng Tòa Thánh để tạo công đức trước khi chết. Thế là ông đưa mẹ con tôi rời Chợ Mới về Tây Ninh. Yếu ớt, lừ đừ nên ông đi 10 bước nghỉ vài phút nên chỉ múc nước cho công thợ uống, thỉnh thoảng giúp bê vài xô hồ. Lần hồi, ông bê được vật nặng rồi dứt bệnh lúc nào không hay. Ông thọ được 87 tuổi. Không chỉ mỗi cha tôi mà có cả trăm người bệnh không nằm trong số 500 công thợ chính. Người ta gọi họ là thợ bệnh”.

Ảnh: Một góc nội thất Tòa Thánh Cao Đài.

Sự thật về giai thoại quả mìn nằm dưới nền tòa thánh

Tòa Thánh vừa xây dựng xong phần cơ bản thì ngày 28/6/1941, chính quyền Pháp đưa quân đội chiếm lấy làm doanh trại đóng quân. Giáo chủ Phạm Công Tắc bị Pháp bắt đày đi đảo Madagascar vì “truyền bá dị đạo”. Nhân công xây dựng bị quân Pháp xua ra khỏi Tòa thánh.

Mãi đến năm 1946, Giáo chủ Phạm Công Tắc mới được Pháp trả tự do, trở về tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng Tòa Thánh.

Có thể nói công trình kiến trúc Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh lộng lẫy, nguy nga như một cung điện. Năm 1947, hàng vạn tín đồ từ khắp nơi kéo về Tây Ninh tham dự lễ khánh thành Tòa Thánh.

Không ai biết trong giai đoạn chiếm đóng Tòa Thánh, một đơn vị quân Pháp nhận được từ thượng cấp mật lệnh chôn một khối thuốc nổ 100kg (có tài liệu cho rằng 1.000kg) dưới nền Chánh điện.

Mãi đến năm 1956, người ta mới phát hiện điều này qua mục Courriers des lectuers (chuyên mục dành cho độc giả viết) của Tuần báo Paris Match. Tác giả bài báo là ông Roubaud – nguyên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng một đơn vị bộ binh Pháp. Bài báo cho biết, năm 1944, tiểu đoàn ông nhận được lệnh tiếp quản Tòa Thánh từ một tiểu đoàn chiếm đóng trước đó.

Ông Roubaud viết: “Tôi có đọc một bài phóng sự của quí báo về tôn giáo Cao Đài làm tôi nhớ lại Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, nơi mà chúng tôi từng nhận lệnh chiếm đóng. Trước đó, một tiểu đoàn đã được phái vào chiếm đóng Tòa Thánh để thực hiện một kế hoạch bí mật. Đó là chôn một khối thuốc nổ 100kg dưới nền Tòa Thánh để khi quân đội Nhật vào chiếm đóng Tòa Thánh, sẽ cho nổ khối thuốc nổ ấy để tiêu diệt. Chôn xong khối thuốc nổ, đơn vị này nhận được lệnh đi làm nhiệm vụ khác. Đơn vị của tôi được cử đến thay thế.

Khi tôi cùng tiểu đoàn của mình đến đây tiếp quản Tòa Thánh, viên sĩ quan chỉ huy làm biên bản bàn giao nhiệm vụ. Không rõ vì nguyên do nào mà trong biên bản bàn giao ấy, ông ta không nhắc đến nhiệm vụ kích hoạt khối thuốc nổ sau khi quân Nhật chiếm đóng. Tôi cũng không nhận được lệnh ấy từ thượng cấp trực tiếp. Đơn vị của tôi cũng là đơn vị cuối cùng đóng quân tại Tòa Thánh, trước khi rút quân hoàn toàn khỏi Việt Nam. Vì vậy, tôi tin rằng khối thuốc nổ ấy vẫn còn nằm ở đó. Vậy, hôm nay, qua quý báo (Paris Match), tôi xin loan báo cho Hội Thánh Cao Đài biết rõ tin này. Tôi sẵn sàng chỉ chính xác địa điểm chôn khối thuốc khi nào Hội Thánh Cao Đài liên lạc với tôi”.

Thời điểm này, ông Nguyễn Văn Tất (nguyên Tỉnh trưởng Tây Ninh thời Nguyễn Văn Thiệu) đọc được bài báo này có báo với Giáo chủ Phạm Công Tắc (Đức Hộ pháp) và đề nghị đào lên. Mãi đến năm 1964, ông Tất mới cho người bí mật đào đường hầm từ bên ngoài xuyên vào nền Tòa Thánh lấy khối thuốc nổ ra. Vì chuyện này, có dạo râm ran trong tín đồ tin đồn: “Dưới nền Tòa Thánh là… đường xuống địa ngục”.

Cao Đài là một tôn giáo lấy triết thuyết Nho, Lão, Thích làm nền tảng. Tín đồ chủ trương “sống thiện, tuân pháp”, tức làm việc thiện và tuân thủ pháp luật. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Lợi dụng niềm tin tín ngưỡng của tín đồ, một số thế lực thù địch đã nhiều lần trà trộn, dùng thủ đoạn thâm độc hòng chia rẽ nội bộ tôn giáo, tạo hình ảnh xấu cho đạo Cao Đài.

Với chủ trương “gạn đục khơi trong, làm trong lành môi trường tín ngưỡng để tín đồ yên tâm tu hành”, chính quyền ta đã nhiều lần phá vỡ những âm mưu, thủ đoạn đê hèn đó. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt và lâu dài, nhiều cán bộ, chiến sĩ của ta đã hy sinh tính mạng để ngày nay đạo Cao Đài trở thành một tôn giáo thuần túy tín ngưỡng.

Trải qua nhiều sóng gió biến động suốt hơn 3 /4 thế kỷ qua, Tòa Thánh trở thành điểm hành hương của khoảng 5 triệu tín đồ ở khắp hành tinh và là điểm tham quan du lịch tâm linh hấp dẫn đối với nhiều du khách quốc tế. Rất nhiều tạp chí kiến trúc nước ngoài đã viết bài giới thiệu và ca ngợi công trình Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.

Và người Tây Ninh, kể cả ngoại đạo cũng xem Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh là công trình kiến trúc đáng tự hào

Nông Huyền Sơn/Công an nhân dân
Đọc tại: Chém gió cả tuần

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *